Home Tin Tức Bình Luận Vật chất tối và xác ông Hồ

Vật chất tối và xác ông Hồ PDF Print E-mail
Tác Giả: Nhất Hướng   
Thứ Ba, 17 Tháng 11 Năm 2009 05:15

Đầu thế kỷ XX Khoa học Phương Tây có được 2 thuyết lớn: Thuyết Tương Đối và thuyết Lượng Tử. Theo công thức E = MC2 (năng lượng bằng khối lượng nhân với bình phương vận tốc) trong thuyết Tương Đối.

 Chúng ta có thể giải thích rằng nếu chúng ta có được 1 kg vật chất (bất cứ vật chất gì) di chuyển với tốc độ 300.000 Km/giây thì 1 kg vật chất đó có thể sản xuất ra được một năng lượng bằng 25.000.000.000 Kwh. Số năng lượng này có thể thắp sáng thành phố New York hơn 1 tháng. Trên thực tế và theo thuyết Lượng Tử thì chúng ta không có được loại vật chất nào có thể di chuyển với vận tốc cao như thế hoặc gần bằng thế ngoại trừ ánh sáng.

Năm 1928 Paul Dirac, giáo sư toán trường đại học Cambridge, dựa vào phương trình X2 = 4 (X bình phương bằng 4). Vì phương trình này có thể cho được 2 đáp số khi X = 2 và khi X = - 2   nên Paul Diract đã đưa ra một thuyết cho rằng có một đáp số khi hạt và năng lượng Dương và một đáp số khác khi hạt và năng lượng Âm. Như thế phải có một biển vật chất và năng lượng Âm tồn tại đâu đó trong vũ trụ. Thuyết này là một ý tưởng mới lạ trong vật lý cổ điển, các khoa học gia thời đó chỉ có quan niệm hạt và năng lượng chỉ là Dương, vừa phù hợp và vừa làm ổn định được cả 2 thuyết Tương Đối và thuyết Lượng Tử.

Năm 1930 Victor Hess quan sát được những tia vũ trụ (cosmic rays) là những hạt có năng lượng cao khi va vào bầu khí quyển đã tạo thành những trận mưa vũ trụ. Năm 1932, Carl Anderson, giáo sư trường CIT, nghiên cứu về mưa vũ trụ đã phát hiện một cái gì đó hiện ra bên cạnh với một định lượng tương đương với lượng Electron. Ông gọi đó và Anti Electron và đặt tên là Positron. Từ đó Phản hạt được xác nhận. Paul Dirac, Victor Hess và Carl Anderson đều được lãnh giải Nobel những năm sau đó.   

Phải đến năm 1955 toán nghiên cứu của Emilio Serge và Owen Chamberlain mới tìm ra được Anti Proton. Vài năm sau toán nghiên cứu của B. Cork và O. Piccione tìm ra Anti Neutron. Từ đó đến nay, qua phòng thí nghiệm CERN ở Châu Âu, các khoa học gia Phương Tây đã thành công khi cho Anti Proton kết hợp với Anti Electron hay với Anti Neutron để tạo ra Phản Vật Chất  (Anti Matter).

Một số khoa học gia Phương Tây có ý kiến cho rằng Hạt và Phản Hạt có số lượng ngang nhau khi vũ trụ khởi đầu vụ nổ Big Bang về sau chúng tách ra làm 2 phần và hiện nay Phản Hạt có rất ít trong ngân hà chúng ta mà chỉ tồn tại rất nhiều ở ngoài rìa vũ trụ nên họ đặt máy dò hạt AMS trên trạm không gian để dò Phản Hạt. Nhiều Khoa học gia Phương Tây có ý kiến cho rằng mỗi hạt đều có một Phản Hạt đi theo và hạt và Phản Hạt của nó có thể hủy nhau, trong trường hợp hạt mang lực thì Phản Hạt cũng giống hệt như hạt đó.

Trong khoảng thời gian sau này khoa học Phương Tây còn tìm ra được những loại hạt khác gọi là hạt ảo, bởi chúng không giống như những hạt thực, chúng không thể phát hiện bởi một máy dò hạt nào. Tuy nhiên chúng ta biết nó tồn tại bởi chúng gây ra những hiệu ứng đo được,  chúng đã tạo ra những lực can thiệp sâu xa vào cuộc sống chúng ta như hạt ảo Graviton do Newton Isaac tìm thấy (gây ra lực hấp dẫn). Hạt ảo Photon (gây ra lực điện từ). Các hạt ảo Boson, đó là các hạt W+W và Zo (gây ra lực hạt nhân yếu).

Tất cả các loại hạt mà chúng ta không thể thấy được không thể phát hiện bởi những máy dò hạt hiện nay nhưng chúng ta biết chắc rằng nó đang tồn tại đâu đó trong vũ trụ được các khoa học gia Phương Tây gọi chung một tên là Vật Chất Tối (Dark Matter).

Trước đó các nhà Thiên Văn Phương Tây quan sát vũ trụ và ghi nhận được các thiên hà mỗi ngày mỗi trôi xa. Họ cho rằng vũ trụ khởi đầu do vật chất tụ lại một điểm gọi là Điểm Kỳ Dị và bùng nổ ra cách đây 15 tỷ năm, nay vũ trụ là một khối cầu đang giãn nở, thuyết Big Bang của George Henry Lemaitre. Đến đầu năm 1990 họ lại nghi ngờ sự giãn nở của vũ trụ là do một lực nào đó đang đẩy các thiên hà mỗi ngày mỗi trôi xa. Họ gọi lực đó là Năng Lượng Tối và làm nhiều thí nghiệm để xác nhận cho được loại năng lượng này. Tháng 10 năm 2004, một chương trình quốc tế ở đài thiên văn New Mexico với sự tham gia của 200 nhà thiên văn từ 13 viện thiên văn quốc tế đã biên soạn xong một bản đồ mới nhất về vũ trụ trong khoảng không gian xa nhất là 2 tỷ năm ánh sáng. Chương trình này loại bỏ tất cả những nghi ngờ về sự hiện hữu của Năng Lượng Tối và còn xác nhận thêm có một Vũ Trụ Âm đang hiện hữu trong vũ trụ hiện nay. Trong Vũ trụ Âm này có chứa một lượng Vất Chất Tối nhiều gấp năm lần vật chất ở Vũ Trụ Dương và chiếm một khoảng không gian đến 80% không gian của vũ trụ.

Việc khoa học Phương Tây xác nhận sự hiện hữu của Vũ Trụ Âm, Năng Lượng Tối và Vật Chất Tối có thể được xem như thế giới Hữu Vi đã dùng được Hữu Vi để xác nhận sự hiện hữu của thế giới Vô Vi, một thế giới mà các tôn giáo của loài người đã đề cập đến hàng ngàn năm về trước.

Triết học luôn luôn đi trước khoa học một bước để dẫn đường cho khoa học. Khoa học đi sau những lại chỉnh đốn hay xác nhận được những gì mà triết học có sai lầm hay đúng đắn. Thế giới chúng ta hiện nay có 7 tôn giáo lớn là Do Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Ấn Giáo, Phật Giáo, Khổng Giáo và Lão Giáo. Bảy tôn giáo này đỉnh cao của triết học duy tâm, tuy những cách giải thích của từng tôn giáo có đôi chút khác nhau nhưng lại có chung niềm tin là Con Người là một cái trạm mà Phần Bất Diệt của Con Người tạm đi qua. Các tôn giáo gọi Phần Bất Diệt đó là Linh Hồn, là A Nại Gia Thức, Nhất Điểm Linh Quang, Nguyên Bản. Khoa học Phương Tây trong những năm gần đây cũng có ý kiến cho rằng Proton và Electron là những vật chất Bất Diệt, tuy họ đã xác nhận được sự hiện hữu của Anti Electron và Anti Proton và biết được một Hạt đều có một Phản Hạt đi theo nhưng họ chưa hiểu được tí nào về sự kết hợp giữa Hạt và Phản Hạt nên cũng không làm sao để biết được một Con Người có một Phản Con Người hay không và phần Phản Con Người có phải là Phần Bất Diệt là Linh Hồn hay A Nại Gia Thức hay Nguyên Bản như các tôn giáo đề cập đến.

Các tôn giáo có những thuyết như : Thuyết Chúa Trời tạo ra vạn vật, thuyết Luân Hồi, thuyết Thái Cực sanh Lưỡng Nghi (hay thuyết nhất điểm linh quang) v.v…. Những thuyết này nếu giải thích một cách đơn giản và khoa học là : Sự sống của con người được khởi đầu do có sự can thiệp của thế giới Vô Vi. Nếu sự can thiệp này có xảy ra thì phần can thiệp đó phải là Vật Chất Tối : một loại vật chất mà chúng ta chỉ biết nó đang tồn tại đâu đó trong vũ trụ và chưa biết gì về nó cả. Vật Chất Tối này có thể là Chúa Trời, Thần Sai Baba, Thần Ishvara, Thượng Đế, Ông Trời hay A Nại Gia Thức, Nhất Điểm Quang Linh v.v…mà các tôn giáo có đề cập đến trong các thuyết của các tôn giáo.

Các tôn giáo còn có những thuyết khác như : Ngày Phán Xét Cuối Cùng, Lên Thiên Đường, Xuống Địa Ngục, Luân Hồi, Phản Bản, Trường Sanh Bất Tử. Những thuyết này nếu giải thích một cách đơn giản và khoa học là : Sau khi chết con người có một Phần Bất Diệt gọi là Linh Hồn hay A Nại Gia Thức hay Nguyên Bản có thể được lên thiên đàng hay bị xuống địa ngục hay sống trường sanh bất tử trong cõi Vô Vi. Điều này nếu có có xảy ra thì Phần Bất Diệt đó nếu được hiểu trong tinh thần khoa học Phương Tây có thể chính là phần Phản Con Người hay Phản Hạt mà khoa học vừa xác nhận sự hiện hữu của nó trong vũ trụ.

Ý tưởng và thuyết thường được đánh giá vào loại F/6, theo bảng giá trị tin tức F/6 có nghĩa là : Có Thể Có và Có Thể Không Có. Nhưng thuyết thì thường có nhiều điểm thuyết phục hơn là ý tưởng. Chúng ta không có nhiệm vụ đem những gì của khoa học Phương Tây vừa phát hiện trong thời gian qua để chứng minh cho sự hữu lý của các thuyết của các tôn giáo. Ví dù muốn làm điều đó chúng ta cũng không đủ khả năng vì Thế Giới và Phản Thế Giới hay Hữu Vi và Vô Vi cũng có thể là hai mặt khác nhau, dùng những thứ của Hữu Vi như chữ nghĩa, lý luận, thực nghiệm để nói về Vô Vi  e rằng sự tác dụng không đúng như mình nghĩ.

Thuyết Tương Đối của nhà bác học Albert Einstein là một thuyết của khoa học thuộc lãnh vực vật lý không gian mà số người hiểu được nó chỉ đếm được trên đầu ngón tay nhưng nó đã chỉnh đốn lại Triết Học và biến đổi được con người rất nhiều trong thế kỷ qua. Hai chữ Tương Đối và cái tên Albert Einstein đã đào mồ chôn cái Ý Niệm Tinh Thần Tuyệt Đối của Fredrich Hegel và cái Ý Niệm Tuyệt Đối Vật Chất của Karl Mark. Nó làm cho tính tuyệt đối trong chân lý của từng vấn đề phải bị lung lay và làm con người bớt hung hăng bớt giết nhau để thực hiện chân lý khách quan, chân lý chủ quan. Thế giới nhờ có thuyết Tương Đối mà yên ổn hơn, bớt giết nhau hơn, bớt quá khích hơn dù rất ít người hiểu được trong đó nói cái gì.

Việc xác nhận được sự hiện hữu của Vũ Trụ Âm, Năng Lượng Tối, Vật Chất Tối là một phát hiện mới của khoa học Phương Tây trong thời hiện đại. Tuy họ có nhiều ý kiến cho rằng Proton và electron là loại vật chất Bất Diệt và họ đã xác nhận được sự hiện hữu của Vật Chất Tối nhưng họ chưa hiểu được Vật Chất Tối hình thành như thế nào trong Vũ Trụ Âm, có kết hợp với Vật Chất trong thế giới chúng ta hay không, có kết thành những ngân hà như trong Vũ Trụ Dương hay không, có kết thành những hành tinh và kết thành sự sống như trong thế giới chúng ta không, có sự giao lưu giữa 2 vũ trụ không, cánh cửa qua về giữa 2 vũ trụ hiện ở đâu, Con Người bằng xương bằng thịt có phần Phản Hạt hay Phản Con Người không, Thế Giới chúng ta đang sống có Phản Thế Giới không v.v… Sự phát hiện này chưa đủ khả năng để nâng thêm giá trị cho các thuyết của chủ nghĩa Duy Tâm nhưng  có thể làm chúng ta thay đổi nhiều quan niệm của nhiều vấn đề trong đó có vấn đề : Cách xử lý tốt nhất cho cái xác chết ông Hồ.

Ông Hồ là một nhân vật lịch sử rất đặc biệt của nước Việt Nam chúng ta trong thời hiện đại. Cuộc đời và sự nghiệp của ông nếu được đem ra để đánh giá giữa công và tội, giữa thiện và ác, giữa thật thà và gian manh, giữa đứng đắn và tồi bại thì chúng ta cần phải có một nhà máy giấy và một nhà in làm việc 24 trên 24 trong 64 năm (1945-2009) cũng không sản xuất ra đủ giấy và in đủ tất cả những lời đã nói về ông.

Ông Hồ, cũng giống như nhiều lãnh tụ cộng sản khác trên thế giới, khi qua đời đã bị lũ đàn em của mình làm một việc rất lạ đời không giống như cách thông thường của người xưa khi xử lý xác chết. Họ đã bỏ qua lời trối trăn muốn về thăm Cắt Mát của ông Hồ và mang cái xác chết của ông làm thành một vật trưng bày cho thiên hạ đến xem để làm biểu tượng ca ngợi chế độ và đảng cộng sản. Ông đi qua bà đi lại tham quan kẻ khen người chửi , kẻ thương người hận làm cho cái xác và phần Phản Hạt của ông Hồ (nếu có) không thể yên ở ngay nơi an nghĩ cuối cùng của đời một con người.

Người Phương Tây hay người Phương Đông từ ngàn năm nay thường hỏa táng hay chôn xuống đất những xác chết khi kẻ ấy qua đời. Nếu có niềm tin về tôn giáo thì họ thường làm những buổi lể cầu kinh, tụng kinh để dẫn dắt phần hồn của người chết đang bơ vơ giữa chốn trần gian không biết tựa vào đâu lên Thiên Đàng hay vào miền Cực Lạc. Người xưa cho rằng nếu để nguyên xác chết mà không hỏa táng hoặc không chôn, phần hồn sẽ không thể rời được xác chết để đi đầu thai kiếp khác. Nếu những thuyết của chủ nghĩa duy tâm không thể đúng thì không có gì để nói nhưng nếu những thuyết của chủ nghĩa duy tâm có thể đúng thì việc ướp xác ông Hồ là một điều bất lợi cho chính bản thân ông. Phần Phản Hạt của ông Hồ có thể không rời phần được Hạt của ông để lên thiên đường hay xuống địa ngục hay chuyển qua kiếp khác như các thuyết của chủ nghĩa duy tâm thường đề cập đến...

Nhà bác học Albert Einstein đã được bầu làm một vĩ nhân của thế kỷ XX nhưng cuộc đời của ông ta là cuộc đời bình thường như giống như cuộc đời của mọi con người. Chúng ta cũng nên nhìn cuộc đời ông Hồ qua khía cạnh như những con người bình thường thì chúng ta thấy ông đã có nhiều mất mát to lớn. Ông Hồ có vợ (nhiều vợ) nhưng không dám nhìn vợ, ông có con mà chẳng dám nhận con, ông ta đã mất một mái ấm gia đình, những giây phút hạnh phúc bên vợ bên con và nhất là ông đã bị treo giò nhiều năm hay chỉ được làm cái việc đó trong chùng lén kín đáo để đóng cho đúng cái vai mà đảng cọng sản đã tô vẽ cho ông (hay ông tự tô vẽ hay bị khẩu buộc) : Một vị cha già dân tộc đã hy sinh cả cuộc đời không vợ không con để lo cho việc giải phóng đất nước. Đúng như người xưa thường nói cha chung không ai khóc nên khi chết cái xác của ông được giao cho một lũ ác ôn, bọn này tiếp tục lợi dụng thêm đem ướp trưng bày như một vật tô điểm thêm cho chế độ và đảng cộng sản.

Võ Nguyên Giáp chưa chết, Trường Chinh trước khi chết không biết có kinh kệ gì hay không nhưng Phạm Văn Đồng trước khi chết mắt bị mù không hiểu đã nhìn thấy gì trong tối tăm thường la hét điên loạn và đã năn nĩ Hòa Thượng Thích Đức Nhuận làm lễ qui y trước khi rời trần gian để mong được về cõi …địa ngục, chỉ còn riêng mình ông Hồ bị lũ đàn em cho nằm trên cạn trông thật đáng thương để tiếp tục nghe tiếng thị phi giữa trần gian đầy hiểm ác. Kỳ lạ thay nơi ông nằm lại có tên Ba Đình, chữ Ba nếu hiểu theo nghĩa Phong Ba, Ba Đào và chữ Đình nếu hiểu theo nghĩa Đình Làng thì cái xác của ông nằm giữa Ba Đình cũng như những cái xác của tội phạm bị phanh thây nằm giữa làng để cho dân chúng đi qua đi lại phỉ nhổ. Nếu mỗi Con Người có một Phản Con Người đi theo và các thuyết của chủ nghĩa duy tâm có thể đúng thì phần Phản Con Người của ông Hồ có thể đang lẫn quất đâu đó trước Ba Đình hay có thể có tham dự buổi nhà báo ngoại quốc phỏng vấn con của ông là Nông Đức Mạnh để nghe lời nó từ chối không nhận ông là cha như ngày xưa ông đã không xem nó là con. Chỉ vì nhưng danh vọng hảo huyền mà cha không nhận con, con không nhận cha là việc rất trái tai trong văn hóa Việt Nam. Hành động chỉ xảy ra ở Phương Tây và chỉ xảy ra ở những con người như Cắt Mát.

Đem cái xác ông Hồ chôn xuống lòng đất là ý kiến của nhiều người Việt hiện nay để cho con ma cộng sản không còn lảng vảng giữa thủ đô Hà Nội, để cho sự sợ hãi không còn bao trùm trong lòng dân Việt, để khép kín một trang sử đau buồn của đất nước Việt Nam, để cho mọi người nắm tay nhau đoàn kết nhìn về tương lai. Ý kiến chỉ có thể thực hiện được khi nó phát xuất ra từ một người đang nắm quyền lực trong tay và đang đủ tư cách để thực hiện : Nông Đức Mạnh, tổng bí thư đời thứ 13 của đảng cọng sản Việt Nam và con rơi của Hồ Chí Minh. Nhựng Nông Đức Mạnh lại là người được sanh ra và lớn lên trong vòng tay của chủ nghĩa duy vật nên không được cái may mắn hưởng những ân đức của 7 tôn giáo lớn trên hành tinh, có lẽ y cũng chưa bao giờ đọc được Nhị Thập Tứ Hiếu, Mục Kiền Liên (những em nhỏ tại Việt Nam cho tôi biết không được dạy và không biết gì về Nhị Thập Tứ Hiếu và Mục Kiền Liên cả) và nhất là có lẽ cũng chưa hề biết được câu nhân sanh bách hạnh hiếu vi tiên nên lòng vẫn chẳng biết đau khi biết phần Phản Con Người của cha mình, là phần Vật Chất Tối mà khoa học Phương Tây đã xác nhận sự hiện hữu, đang còn lẩn quẩn một cách đáng thương đâu đó giữa trần gian đầy oan nghiệt. Nhân dịp y đến thăm Australia đúng vào mùa lễ Vu Lan, mùa của những người con báo hiếu. Tôi xin có vài hàng nhắn nhủ cùng y : Nếu không có được may mắn nhận được đức tin của một trong 7 tôn giáo lớn trên hành tinh thì cũng nên tìm hiểu những gì đang xảy ra ở nền khoa học Phương Tây để có một quyết định hợp thời : Làm một lễ câu siêu to lớn và chôn các xác của ông Hồ tức là tách phần Phản Con Người (nếu có) của Hồ ra khỏi phần Con Người đề cho phần Phản Con Người (linh hồn) của ông Hồ Chí Minh lìa cõi trần gian đi về miền nó cư ngụ. Làm được phần việc này  là thực hiện đúng di chúc của ông Hồ và còn giử được chiếc ghế tổng bí thư đảng cọng sản Việt Nam nơi mà đảng viên  ngày đi làm tối về len lén vào chùa và nhà thờ sám hối ngày càng đông. Làm được việc này là được mọi người khen ngợi cho là việc làm đúng của một người con có hiếu và các nhà thơ sẽ có những bài thơ ca ngợi sự hiếu thảo của mình đừng để như tổng bí thư Trường Chinh đã ra đi mà bia miệng vẫn còn với 2 câu thơ

Hành Thiên có bác Trường Chinh (tên làng của Trương Chinh)
Dạy con dạy cháu hết mình tố cha

Nếu xác ông Hồ được chôn xuống lòng đất thì dân tộc Việt Nam cũng không nên quên nói hai chữ cám ơn với Paul Adrien Maurice Dirac (1902-84), ông đã có được một thuyết khoa học làm thay đổi được bộ mặt của xã hội Việt Nam, một xã hội đầy đau thương từ ngày có đảng cộng sản.