Home Tin Tức Bình Luận Dân chủ hóa hay nội chiến, sự thực khả thi hay tiên đoán mơ hồ?

Dân chủ hóa hay nội chiến, sự thực khả thi hay tiên đoán mơ hồ? PDF Print E-mail
Chúa Nhật, 03 Tháng 1 Năm 2010 21:29

. . .  nhưng đảng CSVN đã gây ra cuộc chiến tranh tương tàn . . .

 

 Đất nước hiện tại đang trong sự cai trị độc quyền của đảng CS, mặc dù được tiếng là thống nhất, nhưng chỉ phần nào về mặt lãnh thổ địa lý, trong thực tế thì bị nhiều vấn đề chia cách từ tâm thức người dân, cho đến cuộc sống chênh lệch giàu nghèo, an sinh xã hội không có cho giới nghèo khó, nếp sống thành thị và thôn quê như hai thái cực đầy dẫy những hố sâu ngăn cách giàu có, nghèo hèn, trí thức và quê mùa. Đây là nói về mặt nội tình đất nước, còn mặt ngoài thì đang bị nước láng giềng Trung Hoa khống chế, đe dọa lấn chiếm nhiều mặt.

Đối với tình hình Việt Nam hiện tại, sở dĩ đảng CSVN không thể nào thực thi được việc dân chủ hóa là bởi 3 nguyên do chính yếu sau đây:

1. Lòng người tan hoang chia rẽ

Mang tiếng là thống nhất, nhưng đảng CSVN đã gây ra cuộc chiến tranh tương tàn, đã thế còn không muốn hàn gắn lại vết thương của dân tộc sau trên 3 thập niên đã kết thúc chiến tranh.

Hòa bình, thịnh vượng không thể xây dựng bằng bạo lực, súng đạn và chiến tranh. CSVN thống nhất đất nước chỉ ở bề mặt hình thức, còn thực chất nhân tâm băng hoại, ly tán hơn cả thời kỳ 1954 trước chiến tranh. Bằng chứng là đảng CS ngày hôm nay nhìn đâu cũng vẫn còn thấy “các thế lực thù địch!“ thì làm sao dám trao trả chủ quyền lại cho người dân để mọi người thực sự có được quyền tự do, bình đẳng trong việc thực thi dân chủ? Trao trả chủ quyền cho toàn dân như Nguyễn Minh Triết đã nói đến việc bải bỏ điều 4 Hiến pháp có nghĩa là đảng CS sẽ “tự sát!“. Như vậy là CS chỉ vì quyền lợi phe nhốm, đảng phái mình chớ nào nghĩ đến quyền lợi chung của dân tộc?

Đa đảng chính là sự hàn gắng những tan hoang chia rẽ, hàn gắn lại vết thương của dân tộc sau bao nhiêu tàn phá của chiến tranh.

2. Cơ chế chính trị do đảng CSVN thiết lập, không xây dựng trên nền tảng Dân chủ

Việt Nam sẽ không bao giờ dân chủ hóa được khi chưa có đa đảng, chưa có tự do bầu cử, chưa có một Quốc hội của dân, do dân và vì dân đúng nghĩa, ban hành Hiến pháp mới (Quốc hội lập hiến) để có được một thể chế chính trị xây dựng từ nền tảng tự do dân chủ thực sự.

Hai nhận định chính yếu trên là những yếu tố nội tại kềm hãm chiều hướng phát triển của dân tộc. Thêm nhận định thứ 3 dưới đây là yếu tố ngoại tại có thêm tác động cản trở tiến trình phát triển, dân chủ hóa đất nước.

3. Yếu tố ngoại tại: Bắc Kinh kềm chế

“Diễn biến hòa bình“ hay “sức mạnh của nhân dân“, các điều này hiện tại CSVN đều không muốn thấy xãy ra. Lý do là vì muốn giữ sự sống còn cho riêng đảng thì phải dựa thế và đi theo mô hình cai trị độc tài, độc đảng như Bắc Kinh, vô hình chung đã coi Tàu như “kim chỉ nam“ để chịu làm học trò yếu thế, thần phục và rơi vào qũy đạo kềm tỏa của Bắc Kinh. Mất thế chủ động nên mọi mọi việc xây dựng phát triển, Việt Nam luôn ở vào tư thế tuột hậu, yếu kém hơn so với Trung Quốc, và tiến trình dân chủ hóa Việt Nam coi như bế tắt!...Một nước Việt Nam ở trong tình trạng nghèo hèn, tuột hậu là môi trường tốt cho dã tâm bành trướng của Đại Hán, mà bằng chứng cụ thể là vấn đề biên giới, Biển Đông, bauxite, uranium… rồi việc văn hóa phẩm và hàng hóa Tàu tràn ngập thị trường Việt Nam.
 
Lịch sử đã chứng minh, từ thời nhà Lý đến nhà Trần, 2 triều đại vẫn được xem là huy hoàng nhất trong lịch sử dựng nước của dân tộc, đã tạo cho nước Đại Việt trở nên cường quốc, uy thế lừng lẫy trong suốt nhiều thế kỷ là nhờ phần vào triết lý chính trị, thấm đẫm tinh thần Phật giáo đầy khai phóng (phá chấp, dung hợp được cả Phật, Lão, Khổng), tách rời đường hướng trị quốc ra khỏi hệ tư tưởng chính trị Khổng giáo độc tôn chỉ nhằm có lợi cho việc cai trị của nhà Hán muốn bành trướng, đồng hóa tất cả dân tộc Bách Việt trên khắp miền Hoa Nam. Chính nhờ tinh thần Phật giáo gốp phần khai phóng mà Đại Việt  thoát ly được quỹ đạo Hán hóa của Trung Hoa. Phật giáo chính là một hệ tư tưởng rất mới mẻ vào thời đó. Người mang đầy tâm huyết, dũng lược, dám đứng lên vận dụng triệt để sức mạnh tinh thần để đẩy lùi cả bóng đêm đem tối còn kéo dài ảnh hưởng suốt lịch sử cả ngàn năm bị Hán hóa đó chính là Thiền sư Vạn-Hạnh, cố vấn quân sư cho triều Lý, khởi công đầu đặt nền móng, mở ra được sinh lộ mới cho dân tộc.

Cái mới trên là thời đại Lý, Trần. Còn ngày hôm nay chúng ta sẽ tìm được cái mới nào? Có phải lý tưởng Tự do, Dân chủ, Nhân quyền được phản ảnh đầy đủ nơi bản Tuyên ngôn và Công ước Quốc tế về Nhân quyền của LHQ, là sản phẩm trí tụê chung của cả nhân loại? Nếu đúng thế, thì con đường thuận hảo thế giới đã sẵn chọn, có lý do gì mà người Việt Nam chúng ta từ chối, không lấy làm sách lược dựng nước trong thời đại mới này?

Tách rời qũy đạo kềm chế của Bắc Kinh là điều trước tiên đòi hỏi những người yêu nước phải làm. Thời kỳ bắc thuộc cả ngàn năn, nếu không có Ngô Quyền bày trận tại Bạch Đằng Giang tiêu diệt quân Nam Hán thì đất nước dân tộc không thể có thời kỳ tự chủ, mặc dù sau đó xãy ra cuộc nội chiến, mà cao điểm nhất là thời Đinh Bộ Lĩnh với 12 sứ quân. Công cuộc dựng nước đã kết thúc hẵn giai đọn ngoại xâm của Hán tộc để chỉ còn thu hẹp vào việc nội trị nước ta thời đó tiến dần đến thống nhất nhân tâm (nhân hòa), mở ra con đường xây dựng phát triển đất nước cho các triều đại Lê, Lý, Trần… về sau, vẫn hơn hẳn sống trong cảnh bắc thuộc, nô lệ, lầm than, tiếp tục bị Hán hóa để rồi dần đi đến mất nước!

Đảng CSVN trong thực tế cũng đầy dẫy phe cánh tranh giành quyền lực, quyền lợi, dù nội chiến chỉ mới từ các cơ cấu quyền lực trung ương cung đình lan ra ngoài xã hội như các vụ án Tổng cục 2, Năm Châu, Sáu Sứ, Năm Cam, PMU18 v.v… chưa lan ra ngoài chiến trường nhưng không có nghĩa là không thể xãy ra trong tương lai! Khi chế độ đầy dẫy những tham quan kết bè, hống hách, nhũng lạm khắp nơi thì các căn bệnh bất trị này chắc chắn là những đầu mối có khả năng dẫn đến nội chiến còn thảm khốc cho Việt Nam nhiều lần hơn những lo ngại về một chế độ dân chủ đa đảng, có tam quyền phân lập, có hiến định chế tài mọi đảng phái, cá nhân đi ngược lại quyền lợi của quốc gia dân tộc.

Giải pháp nào để đưa dân tộc sớm thoát khỏi vòng đen tối? Có phải cứ giữ mãi chế độ khuyết tật CS hiện tại để luôn bị Bắc Kinh kềm chế, Hán hóa, sang đoạt dần chủ quyền đất nước một cách từ từ, để rồi…mất nước? Hay phải can đảm viết lại trang sử mới trên con đường dân chủ phát triển, khi cả dân tộc cùng đồng lòng (hay ít ra cũng đa số như hiện nay) đòi hỏi đảng CS phải trao trả chủ quyền lại cho toàn dân? Giải tỏa được 3 vấn nạn kể trên thì trở ngại cũng đã san bằng đi nhiều, mở được lối đi thênh thang nhiều hứa hẹn cho Việt Nam tốt đẹp hơn, hội nhập vào trào lưu văn minh tiến bộ cùng thế giới tự do dân chủ. Xóa tan xong mọi đe dọa ngoại xâm, mọi tham vọng bành trướng của Hán tộc thì xung lực yêu nước, đoàn kết của dân tộc Việt Nam chúng ta mới càng được mảnh mẻ gắng bó và cũng cố hơn. Tinh thần độc lập, tự do, thống nhất nhân tâm sẽ có được môi trường thuận lợi, thích hợp để phát huy triệt để, khi tiến trình dân chủ được người dân đồng lòng thực thi trên tất cả mọi bình diện, thì mọi mầm móng nội chiến không còn cơ hội để nẩy nở nữa! Hơn nữa những lo ngại về nội chiến chỉ là “điểm“ phòng xa, dự đoán để thấy rõ một số mâu thuẩn tao loạn lúc đầu trong buổi giao thời thôi. Với sách lược trường kỳ xây dựng tiến trình dân chủ phát triển “toàn diện“ thì nội chiến không thể lũng đoạn được, mà ngược lại, chắc chắn sẽ bị xóa sổ theo thời gian.