Home Tin Tức Bình Luận Đại Việt Bên Đại Tống và Cao Ly

Đại Việt Bên Đại Tống và Cao Ly PDF Print E-mail
Tác Giả: Nguyễn Xuân Nghĩa   
Thứ Hai, 08 Tháng 3 Năm 2010 12:02

Lịch sử ngàn năm trong địa dư Đông Á...


Thành Cổ loa xưa

Nhớ về ngàn năm trước, khi từ Hoa Lư Lý Thái Tổ lập đô tại Thăng Long vào năm 1010, rồi nước Đại Việt ra đời, chúng ta cùng nhìn ra ngoài xem các nước khác xoay trở ra sao....
Thời Tùy-Đường là cơ hội cho dân ta quật khởi. Khi nhà Đường tiêu vong vào năm 907 thì gần sáu chục năm của thời "Ngũ đại - Thập quốc" sau đó là lúc dân ta giành lại quyền tự chủ. Thế rồi, trong khi nước ta bị 70 năm loạn lạc, từ Ngô Vương Quyền đến Lý Thái Tổ từ 939 đến 1009, thì nước Tầu lại tái thống nhất. Triệu Khuông Dẫn mở ra nhà Đại Tống từ đấy.

Nhà Tống này tồn tại được hơn ba trăm năm - từ 960 đến 1279. Nhưng chỉ có trăm năm đầu là mạnh. Trong một chuỗi dài sáu triều đại là Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh và Thanh, thì Đại Tống là đế quốc yếu nhất.

Nhìn lại chuyện ngàn năm trước, chúng ta thấy ra hai cuộc chạy đua để đổi loạn ra trị.
Bên Trung Hoa loạn trước nên tới đích sớm hơn với sự ra đời của nhà Tống. Vì vậy, họ cũng manh nha chinh phục lại vùng đất Giao Châu vừa bị vuột mất. May là sau Ngô Quyền, nước ta có Lê Hoàn - Đại Hành Hoàng đế - và chiến công phá Tống bình Chiêm trong các năm 981- 982. Cái may thứ hai của chúng ta là nhà Đại Tống này thật ra cũng còn yếu vào khi nước ta chưa đủ mạnh trong giai đoạn tự chủ ban đầu! Với nhà Lý thì Đại Việt đã kịp đủ mạnh để đương đầu quyết liệt hơn, trong khi nhà Tống tuột dốc và bị Mông Cổ diệt vong.

Xuất phát từ thời tao loạn, Thái tổ Triệu Khuông Dẫn của nhà Đại Tống tập trung quyền lực vào trung ương ở kinh đô Khai Phong tại phía Bắc và tước đoạt binh quyền của các địa phương. Quyền lực trung ương rất mạnh thì đem lại sự ổn định - và phát triển văn hoá cùng kinh tế. Nhưng lại làm suy yếu ảnh hưởng vương triều tại các vùng phiên trấn hay biên ngoại. Đó là mâu thuẫn lớn của triều đại này và cũng là mâu thuẫn của Trung Quốc ngày nay.

Nói về thành tựu thì Trung Quốc đời Tống đã mở đầu thiên hạ với cuộc "cách mạng kỹ nghệ" - khi loài người chưa nghĩ ra chữ "kỹ nghệ" hay "công nghiệp". Họ phát minh ra thuốc súng và cả súng hỏa mai, họ mở ra kỹ thuật ấn loát, họ cải tiến kỹ nghệ luyện kim để sản xuất thép ngày một nhiều và tinh xảo hơn. Họ mở mang kỹ thuật đóng tầu và hàng hải và cho bành trướng thương mại. Nhờ vậy, khi mà Âu Châu mới chỉ có thị trấn thì đời Tống đã có các thành phố lớn.

Hàng Châu, sau này là kinh đô Nam Tống, có tới nửa triệu dân trong khi Paris hay các kinh đô khác của Âu Châu chỉ có chừng chục vạn. Constantinople tỏa sáng kia mà cũng mới chỉ có ba chục vạn dân thôi. Về văn hoá, nhà Tống cũng có nhiều tiến bộ vượt bậc so với nhà Đường, nên thơ phú, hội họa đã trở thành sinh hoạt phổ biến còn rộng rãi hơn trong dân gian.

Nhưng then chốt nhất, tầng lớp ưu tú của họ đào sâu tư duy về Khổng học và nâng tư tưởng Khổng giáo lên trình độ... chuyên chế. Phật giáo bị đẩy lui, Khổng giáo trở thành tư tưởng chính thống mà chủ quan hơn. Lý học của Tống nho là hệ thống tư tưởng cực đoan nhất vì chủ yếu tập trung vào việc bảo vệ vương quyền. Trước tiên là bảo vệ Hoàng đế và Hoàng gia.
Việc bảo vệ vương quyền cũng khiến nhà Tống chỉ có sức mạnh ở trung ương và thường xuyên bị ngoại tộc tấn công, trong đó có cả nhà Đại Việt dưới thời Thái úy Lý Thường Kiệt năm 1175-1177. Chiến công của nhà Lý khiến Tể tướng Vương An Thạch bị mất chức và việc "biến pháp" để cải cách của ông phải chấm dứt khiến nhà Tống còn lụn bại hơn.

Nhà Đại Tống bị uy hiếp nặng nhất là từ phía Tây và phương Bắc.
Các vương quốc vây quanh như Tây Hạ, Kim, Liêu thay nhau tấn công Trung Nguyên. Nhà Kim mượn sức nhà Tống đánh bại nhà Liêu, rồi vào năm 1127 thôn tính luôn một phần của nước Tống, kể cả kinh đô Khai Phong. Triều Tống chạy xuống miền Nam, cố cầm cự, rồi cầu hòa, rồi nhường lãnh thổ phía Bắc để thiên đô xuống Hàng Châu. Tại đó, từ năm 1142 nhà Nam Tống chỉ còn thoi thóp. Sau khi Mông Cổ diệt sạch Tây Hạ, Kim, Liêu thì cũng diệt luôn Đại Tống để lập ra nhà Nguyên.

Ở biên vực phía Nam, nhà Tống cũng bị các nước gọi là phiên trấn hay chư hầu đánh cho tơi tả. Một tộc trưởng Cao Bằng là Nùng Trí Cao mà vua Lý của ta đã tha chết về sau còn lập ra nước Đại Lịch rồi Đại Nam! Họ Nùng này cầm quân đánh vào Nam Tống để đòi chức Tiết độ sứ khiến triều đình rung chuyển, Đại tướng Tống là Địch Thanh phải giật mình!
Nếu nghĩ lại, trong khi nhà Lý của nước ta củng cố được vương quyền và pháp lệnh để lãnh đạo một nước Đại Việt thống nhất hơn thì nhà Đại Tống lại thường xuyên nghiêng đổ. Vì vậy, nếu sử có viết là nhà Tống sai người qua nghiên cứu và học hỏi cách tổ chức binh chế của nhà Lý thì ta không ngạc nhiên... Nhớ đến "ngàn năm Thăng Long" ta không nên quên một trăm năm đầu, rất oanh liệt, của nhà Lý, của nước Đại Việt.
Nhưng ta cũng nên nhìn xa hơn một chút... nhìn tới một cường quốc Đông Bắc Á có vị trí tương tự với Đại Việt. Đó là Vương triều Cao Ly là nước Đại Hàn ngày nay.
***
Tên Cao Ly thật ra là tên dòng họ - Goryeo hay Koryeo - nay mới là tên nước Cao Ly hay Korea.
Khi Giao Châu chuyển mình để bước ra khỏi thời Bắc thuộc thì cái bán đảo mà ngày nay ta gọi là Triều Tiên còn bị nội loạn, kết tinh thành thế "Tam quốc" giữa ba nhà Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La kể từ năm 901. Và còn bị chinh chiến với cái đuôi nối dài. Năm 918, một viên tướng Vương Kiến từ nước "Hậu Cao Câu Ly" lập ra Vương quốc Cao Ly và phải mất mấy chục năm đánh dẹp mới bắt đầu thống nhất kể từ 936 - gần như cùng thời với Ngô Vương Quyền.

Nhà Cao Ly này tồn tại khá lâu, lâu hơn nhà Lý của ta chỉ có tám đời vua. Nhưng trải qua 33 đời vua, nhà Cao Ly thường xuyên bị loạn và không chống nổi ngoại xâm nên phải thần phục nhà Nguyên của Mông Cổ, là trường hợp không xảy ra cho Đại Việt vào đời Trần. Và cũng là bài học cho nước ta vào đời nay...

Trước hết, trong khi Đại Việt phải xoay trở với nội loạn từ các thời Đinh, Lê qua nhà Lý thì nhà Cao Ly bị tộc Khiết Đan (Khất Đơn hay Khitan) xâm chiếm từ năm 939 đến 1019. Sau đó là nhiều đợt tấn công của tộc Nữ Chân - tiền thân của nhà Kim, nhà Thanh. Khi bị Khiết Đan xâm chiếm, nhà Cao Ly phải nhượng bộ đến độ đoạn giao với Đại Tống! Mười năm sau, năm 1009, khi Lý Công Uẩn lên ngôi ở nước ta thì tại Triều Tiên, tướng Khai Triệu giết vua Cao Ly Mục Tông và tạo cơ hội cho Khiết Đan tràn xuống. Khang Triệu bại trận và bị tử hình. Vua Cao Ly là Hiền Tông phải bỏ kinh đô Khai Thành mà chạy. Năm 1018, Khiết Đan lại tấn công lần nữa, lần này bị thảm bại. Đành dừng.

Nhưng, tộc Nữ Chân tại miền Bắc lại lớn mạnh và hết thần phục nhà Cao Ly mà bắt đầu nhòm ngó.
Năm 1107, chiến trận bùng nổ dưới sức ép Nữ Chân, và tướng Doãn Quán của nhà Cao Ly ngăn được. Nhưng như nhiều lần trong lịch sử Trung Quốc hay Cao Ly, hùng tướng tại trận tiền lại bị triều đình hủ bại phía sau nghi ngờ, bãi chức và bị buộc trả lại thành trì cho giặc! Không khác gi chuyện đã xảy ra cho nhà Tống rồi nhà Minh bên Tầu. Triều đình Đại Việt thì chưa đến nỗi tệ như vậy. Trong cả lịch sử nước Nam cũng thế!

Nội tình nhà Cao Ly thật ra thường xuyên có loạn, giữa các võ tướng với văn thần, giữa các vương hậu hay vương tướng họ Lý với hoàng gia Cao Ly, cho nên nhiều lúc triều đình vỡ đôi. Sau vụ nổi loạn của tướng Lý Tư Khiêm năm 1126, triều Cao Ly suy sụp hẳn. Việc võ quan phế lập ngôi vua xảy ra nhiều lần cho tới năm 1179 mới tạm yên nhờ viên tướng Khương Đại Thăng.

Nhưng họ Khương này qua đời thì loạn vẫn hoàn loạn.
Năm 1197, người cháu bốn đời của một danh tướng Đại Việt di cư qua đó từ đời Lý Anh Tông (Thủy quân Đô đốc Lý Dương Côn) là Tể tướng Lý Nghĩa Mẫn bị các võ tướng khác giết hại để khống chế triều đình Cao Ly trong hơn 60 năm. Ông Lý Nghĩa Mẫn này làm Tể tướng nhà Cao Ly trong 14 năm chứ không phải người thường. Cầm đầu nhóm võ tướng đã giết ông là Thôi Trung Hiến. Họ Thôi thực tế nắm quyền, bốc vua này lên, hạ vua kia xuống, các ông vua nhà Cao Ly chỉ ngồi làm vì.
Năm 1231, Đại Hãn Oa Khoát Đài của Mông Cổ từ trong lục địa bước qua và triều đình Cao Ly lại dời đô mà chạy. Nhà Cao Ly cầm cự được gần ba chục năm thì đành đầu hàng vào năm 1159. Năm đó, nước Đại Việt của nhà Trần thời Trần Thái Tông vừa đánh bại quân Mông Cổ trong lần xâm lăng thứ nhất vào đầu năm 1158. Ý chí của Thái úy Trần Thủ Độ có góp phần cho chiến thắng đó.

Phải nói thêm rằng trong ba chục năm chiến đấu chống ngoại xâm thì dân Cao Ly đã kháng cự rất anh hùng. Nhưng triều đình ở trên thì rất yếu. Nếu so sánh thì ta hiểu ra công lao của Trần Thủ Độ khi xoá bỏ nhà Lý mục nát để kịp dựng lên triều Trần. Công và tội với xã tắc cần được xét ở đó hơn là từ quan điểm "trung quân" với riêng nhà Lý!
Triều Cao Ly ký hòa ước để xin hàng Mông Cổ, chỉ giữ lại được chủ quyền về văn hoá và thật sự là phiên thuộc của Nguyên Mông. Thời ấy, Nguyên Thế tổ Hốt Tất Liệt muốn dùng bán đảo Triều Tiên làm bàn đạp chinh phục Nhật Bản. Nếu trong hai đợt tấn công Nhật Bản năm 1274 và 1281 mà nhà Nguyên thành công thì có khi Nhật đã thành phiên thuộc. Còn lãnh thổ của nhà Cao Ly trở thành châu quận của nhà Nguyên!

Trong giai đoạn ngoại thuộc, nhà Cao Ly còn cố gắng cải cách một lần nữa, dưới thời Cung Mẫn Vương, nhưng chính sự mục nát trong triều đã gây ra thất bại. Trong khi nhà Nguyên bị suy yếu trước sự nổi dậy của Chu Nguyên Chương rồi bị đuổi khỏi Trung Nguyên năm 1368 thì Cung Mẫn Vương lại bị một nam thiếp - nói cho dễ hiểu là "kép đực" - ám sát năm 1374.

Việc quật khởi không thành, nhà Cao Ly bị một viên tướng là Lý Thành Quế phế bỏ để xưng vua là Thái tổ Triều Tiên vào năm 1392. Nhà Cao Ly chấm dứt từ đó và dù có 33 đời vua thì thực quyền cũng chẳng bao nhiêu.
Dù sao, trong mấy trăm năm, nhà Cao Ly có để lại nhiều thành tựu về văn hoá, nghệ thuật và rất nhiều kinh sách Phật giáo, tương tự như nhà Lý, nhà Trần của nước ta... Dân Đại Hàn ngày nay thì nhớ, chúng ta thì quên vì ký ức bị xóa. Cùng lắm thì lại tìm vài vòng hoa Cao Ly tròng lên cổ mình, ra chiều hãnh diện vì nhiều vương công đời Lý chạy qua đó đã trở thành anh hùng Cao Ly!

Và ngày nay, trong cuộc đua với Đại Hàn, Việt Nam coi như đã tụt hậu, rồi cứ trôi dần vào "Trật tự Trung Hoa". Là công lao hắc ám của đảng Cộng sản Việt Nam sau 80 năm hiện hữu... Đấy mới là cách nhớ xứng đáng và thực tế về "ngàn năm Thăng Long"!