Việt Nam và cơ hội trở thành đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ. |
Tác Giả: Nguyễn Cao Quyền | ||||
Thứ Sáu, 03 Tháng 12 Năm 2010 09:01 | ||||
Ngày 2/9/2010 vừa qua tại Hoa Kỳ đã diễn ra ba sự kiện làm cho Trung Quốc không vui. Sư kiện thứ nhất là việc T.T Obama ủy nhiệm ngoại trưởng Hillary Clinton công bố một điệp văn chúc mừng ngày Quốc Khánh của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Sư kiện thứ hai là việc Bộ Ngoại Giao và cơ quan An Ninh Hoa Kỳ cho phép Nguyễn Phú Trọng, chủ tịch Quốc Hội Việt Nam, trên đường đi công du Cuba, quá cảnh phi trường Alaska, được họp mặt tại phi trường với các cán bộ ngoại giao Việt Nam làm việc tại Mỹ. Sự kiện thứ ba là ngày 2/9/2010 T.T Obama đã cử một phái đoàn cao cấp sang Bắc Kinh để yêu cầu Trung Quốc thay đối chính sách tài chính và hối đoái, đồng thời cảnh báo Trung Quốc về các vấn đề an ninh Biển Đông và quốc phòng, trong đó có việc Trung Quốc hỗ trợ Bắc Hàn gây rối tại bán đảo Triều Tiên. Một ngày sau khi các sự kiện nói trên xảy ra (3/9/2010) còn có tin cho biết T.T Obama đã quyết định triệu tập các vị nguyên thủ quốc gia khối ASEAN họp riêng về an ninh khu vực và Biển Đông, nhân dịp các vị này tới New York ngày 24/10/2010 để tham dự phiên họp của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Những ai quan tâm đến những biến động gần đây tại Biển Đông chắc không thể không thắc mắc trước những tin tức nói trên. Những dòng viết sau đây xin được đóng góp phần nào vào vấn đề luận bàn thời sự. *** Để được như vậy Hoa Kỳ đã áp dụng hai sách lược. Sách lược thứ nhất là tạo thế quân bình lực lượng trường cửu giữa Tây Bán Cầu và lục địa Âu–Á, và giữa các quốc gia của lục địa Âu-Á với nhau. Sau Thế Chiến II, sách lược này đem áp dụng tại Âu Châu và Đông Á, đã mang lại kết qủa là cả hai vùng đã phát triển trong hòa bình và thịnh vượng. Sách lược thứ hai là chia sẻ trách nhiệm quản lý những công việc chung của thế giới với Trung Quốc và Nhật Bản. Sách lược này, áp dụng từ sau khi Chiến Tranh Lạnh chấm dứt, gần đây đã gặp trở ngại vì tham vọng “lưỡi bò” tại Biển Đông của Bắc Kinh. Biển Đông có một vị trí thiết yếu trong chiến lược an ninh của Mỹ. An ninh Biển Đông hệ trọng không chỉ đối với Đông Nam Á mà đối với cả những đồng minh của Hoa Kỳ ở vùng Bắc Á. Từ 56% đến 60% hàng hóa chuyên chở bằng đường biển mỗi năm đều đi qua vùng này, trong đó 90% là dầu lửa cho Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản. Nếu Trung Quốc không ý thức được trách nhiệm của mình mà cứ tiếp tục đe dọa gây hấn thì tình trạng mất an ninh tại vùng biển nói trên không thể nào chấp nhận được. Do đó Hoa Kỳ quyết định phải điều chỉnh chiến lược. Trong ý hướng này Washington chú trọng đến khối ASEAN, và trong khối ASEAN đặc biệt quan tâm đến Việt Nam. Mỹ sẽ tìm hết cách để tạo khối ASEAN thành một lực lượng có khả năng giữ vững tình trạng “quân bình” tại vùng Á Châu-Thái Bình Dương và xem Việt Nam như cửa ngõ để quay lại vùng này. Đề nghị trở thành đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ. Nhìn vào khu vực Biển Đông, Washington thấy phải kết thân với Việt Nam để thực hiện chiến lược mới của Mỹ, cũng như trong dĩ vãng họ đã kết thân với Trung Quốc để cô lập Liên Xô và làm cho đế quốc này sụp đổ. Hoa Kỳ nhận xét thấy mỗi khi Hà Nội thay đổi định hướng đối ngoại thì toàn bộ hệ thống chính trị của vùng Á Châu-Thái Bình Dương cũng thay đổi. Chẳng hạn như, sau năm 1975 khi Hà Nội thân thiện với Moscow và chống Bắc Kinh thì Liên Xô đã nhận được một số điều kiện rất thuận lợi để thực hiện ý đồ thống trị vùng đất Đông Dương. Ngày nay, việc Hà Nội quy phục Bắc Kinh trở lại, đã giúp Trung Quốc gây áp lực càng ngày càng lớn đối với toàn vùng Đông Nam Á. Trước áp lực của Bắc Kinh, tất cả các quốc gia trong vùng hiện đang cần sự giúp đỡ của Washington, và trong số các quốc gia này Việt Nam đứng đầu sổ. Đối với Việt Nam đây là một nguyện vọng thiết tha mong muốn trở thành sự thật. Rất may là vào lúc này quyền lợi của Việt Nam và Hoa Kỳ lại là những quyền lợi song hành. Trên đất liền, khi Hoa Kỳ đòi Thái Lan cắt đứt mọi viện trợ cho Khmer Đỏ thì Bangkok rất phẫn nộ nhưng Hà Nội lại rất bằng lòng vì như thế vấn đề an ninh biên giới phía Tây của Việt Nam được bảo đảm hơn. Trên quần đảo Trường Sa, mặc dầu sung đột bằng hải lực chưa xảy ra, nhưng nếu để Việt Nam hoàn toàn lép vế trong tranh chấp thì như thế có nghĩa là Trung Quốc không còn gặp trở ngại nào nữa trong việc kiểm soát toàn bộ Biển Đông. Cho nên qua lời nói hay bằng hành động, Hoa Kỳ nhất thiết phải yểm trợ Việt Nam. Để Hoa Kỳ có thể làm được việc này, Hà Nội phải mở cửa đón nhận đồng minh chiến lược. Sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Á Châu-Thái Bình Dương chắc chắn sẽ làm tăng giá trị thương thuyết song phương hoặc đa phương của Hà Nội và ASEAN với Trung Quốc. Không những thế, sự hiện diện này còn khuyến khích Nhật Bản nỗ lực nhiều hơn trong việc kiểm soát và bảo vệ những hải lộ quan trọng trong vùng. Washington đã yêu cầu hợp tác, không còn úp mở. Đại sứ Mỹ tại Việt Nam đã công khai trao trách nhiệm và hối thúc: “Tôi nghĩ rằng trước hết Việt Nam phải tự quyết định Việt Nam muốn gì, rồi cần làm gì. Vì việc trờ thành một nước có vai trò lãnh đạo toàn cầu không chỉ đem lại lợi ích mà còn mang lại trách nhiệm cho Việt Nam. Việt Nam phải quyết định là Việt Nam có muốn cái quyền lợi đó và cái trách nhiệm đó hay không.” Hoa kỳ biết rõ là trong giới lãnh đạo tại Hà Nội, nhiều người vẫn còn sợ Mỹ lật đổ chế độ. Cho nên Washington đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần là họ hoàn toản công nhận chính phủ Việt Nam và sẽ phản đối bất cứ lực lượng nào muốn sử dụng vũ lực lật đổ chính phủ này. Để thuyết phục Việt Nam Hoa Kỳ còn đưa ra một món qùa mà Việt Nam không thể nào từ khước. Đề nghị cho Việt Nam vũ khí nguyên tử. Ai cũng biết là trong Chiến Tranh Lạnh nhờ có sức răn đe của bom nguyên tử mà chiến tranh nóng đã không xảy ra. Điển hình nhất là vụ phong tỏa Cuba của Hoa Kỳ năm 1962 buộc Liên Xô phải tháo gỡ những hỏa tiễn mang đầu đạn hạt nhân. Năm 1973 tại Trung Đông, chiến tranh giữa Do thái và Ai Cập cũng sớm kết thúc khi Ai Cập biết là Do Thái có bom nguyên tử nhưng chưa công bố. Vụ tranh chấp vùng Kashmir giữa Ấn Độ và Pakistan cũng không nổ lớn vì cả hai bên đều có vũ khí hạt nhân. Điều mà ít người biết là gần đây sức răn đe của bom nguyên tử đã bị Trung Quốc dùng làm lợi khí hăm dọa (blackmail) Hoa Kỳ. Một blogger Trung Hoa tên Yang Heng Jun đã bỗng nhiên nổi tìếng vì bài viết “Tại sao Trung Quốc lại cần Bắc Triều Tiên”. Yang Heng Jun tiết lộ rằng Trung Quốc đã phải chịu tốn kém nuôi dưỡng Bắc Triều Tiên trong một thời gian dài chỉ vì sợ phản ứng bất trắc của tên chủ tịch nửa điên nửa khùng Kim Chính Nhật với mấy trái bom nguyên tử của hắn. Mỗi lần Kim Chính Nhật nổi cơn điên hăm dọa cho Nam Hàn và Nhật Bản nếm bom nguyên tử thì một trăm ngàn quân Hoa Kỳ trú đóng tại các vùng lân cận lại hốt hoảng chuẩn bị tác chiến và mất ăn mất ngủ. Và mỗi lần như thế Bắc Kinh lại được Washington ve vãn để nhờ khuyên can Bình Nhưỡng đừng làm bậy. Lâu dần, trò chơi này đối với Trung Quốc trở thành thú vị vì nhờ nó mà Trung Quốc tạo được thêm nhiều uy tín trên bàn cờ chính trị thế giới. Cho nên Trung Quốc tiếp tục giữ nó làm lợi khí blackmail đối với Hoa Kỳ. Bắc Kinh cũng chú ý đến một số cử chỉ và lời nói của Tổng Thống Mỹ Obama. Từ ngày lên nắm chính quyền, đi đâu Obam cũng cúi rạp người để chào các vị nguyên thủ quốc gia khác, một cử chỉ được đánh giá như đã phương hại đến danh dự của Hoa Kỳ trên vị thế bá chủ hoàn cầu. Đi đâu ông cũng xin lỗi về những cuộc chiến mà Hoa Kỳ đã tiến hành trong dĩ vãng và phủ nhận danh hiệu “đại cường quốc” của quốc gia ông. Những biểu hiện nói trên cộng với tình trạng sa lầy trong chiến tranh Irak và món nợ mấy trăm tỷ Mỹ kim vì kinh tế suy thoái đã làm Bắc Kinh tin rằng Hoa Kỳ đang rất sợ chiến tranh. Đệ Thất Hạm Đội hùng mạnh thật nhưng hùng khí dân tộc không có trong lúc này. Vì thế Bắc Kinh đã triển khai một chiến lược thăm dò trên Biển Đông để đo lường phản ứng của Hoa Kỳ. Một mặt Bắc Kinh dùng Kim Chính Nhật dọa nạt khiến Hoa Kỳ và đồng minh hoảng sợ. Mặt khác Bắc Kinh ngụy trang tàu chiến thành tàu buôn uy hiếp ngư dân Việt Nam, dùng các hạm đội mới thành lập đánh đắm các tàu nhỏ hơn của Phi Luật Tân, Mã Lai Á và Nam Dương, quấy nhiễu những tầu không vũ trang của Mỹ trên vùng biển quốc tế. Trước phản ứng yếu ớt của Washington, Bắc Kinh liền cho công bố bàn đồ “lưỡi bò” và chính thức tuyên bố Biển Đông là vùng “quyền lợi cốt lõi” của Trung Quốc. Trước những hành động khiêu khích đó, Ngũ Giác Đài được lệnh nghiên cứu khả năng chiến tranh của Trung Quốc. Sau một năm nghiên cứu, báo cáo cho biết rằng, không lực Hoa Kỳ tại các căn cứ Guam và Okinawa vượt trội quá xa không lực của cả ba nước Nga, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên gộp lại. Các không lực chậm tiến này hiện nay chưa có loại Radar B2 và các chiến đấu cơ tàng hình F15, F18 và F 22. Họ cũng không có những vũ khí dùng sức mạnh của các tia Laser và Microwave nhanh như ánh sáng để tiêu diệt trong nháy mắt hỏa tiễn của đối phương. Kết luận của báo cáo là: “Trung Quốc chưa thể tiến hành chiến tranh với Hoa kỳ”. Căn cứ vào báo cáo nói trên, ngày 23/7/2010, ngoại trưởng Hillary Clinton đã đi Hà Nội phó hội và tại diễn đàn ARF những lời tuyên bố của bà đã lật ngược thế cờ và đã mang lại niềm tin cho toàn khối ASEAN. Riêng đối với Việt Nam bà đã tặng một món qùa qúy giá mà những người cộng sản Việt Nam không thể nào từ khước: sự chuyển giao kỹ thuật nguyên tử. Sự chuyển giao này đã được tướng cộng sản Nguyễn Chí Vịnh ký kết với nhà ngoại giao Robert Scher của Mỹ vào ngày 3/8/2010. Thỏa ước được báo Wall Street công bố cho toàn thế giới biết không chậm trễ. *** Còn đối với Việt Nam, thì chỉ bằng cách này Việt Nam mới có bình đẳng và hòa bình với Trung Quốc. Chỉ trở thành đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ Việt Nam mới có khả năng tự vệ trước kẻ thù truyền kiếp từ phương Bắc. Đó là chân lý và sự thật. Không thể nào có lựa chọn thứ hai./. Nguyễn Cao Quyền
|