Trợ cấp thất nghiệp làm tăng hay giảm tỉ lệ thất nghiệp? |
Tác Giả: Người Việt | |||
Thứ Tư, 15 Tháng 12 Năm 2010 12:45 | |||
Kinh tế gia của chính phủ nói tỉ lệ giảm Nhưng tác giả của chính cuộc nghiên cứu mà tờ tạp chí căn cứ vào đó để đưa ra nhận định trên lại nói ông tin rằng điều ngược lại mới đúng. Nằm trong cuộc thương lượng để duy trì những cắt giảm thuế thời chính phủ Bush thêm hai năm nữa, Tổng Thống Obama và các lãnh tụ Cộng Hòa tại Quốc Hội đã đồng ý gia hạn các phúc lợi thất nghiệp thêm 13 tháng. Ông Kelly Evans của tờ tạp chí viết rằng điều này làm cho tỉ lệ thất nghiệp xấu hơn, khi ông vạch ra một cuộc nghiên cứu vào Tháng Tư bởi Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang ở San Francisco. Trong tài liệu đó, các kinh tế gia của Quỹ Dự Trữ Liên Bang kết luận rằng kéo dài các phúc lợi vào cuối năm 2009 đã làm cho thất nghiệp cao hơn một chút so với mức thất nghiệp nếu không có biện pháp đó. Các đảng viên Cộng Hòa tại Quốc Hội từ lâu vẫn lý luận chống lại việc gia hạn các phúc lợi vì những lý do này. Như ông Evans kết luận: “Thêm các phúc lợi thất nghiệp, thêm thất nghiệp.” Nhưng ông Rob Valletta, kinh tế gia tại Ngân Hàng Trung Ương ở San Francisco, đồng tác giả cuộc nghiên cứu cùng với bà Katherine Kuang, cho rằng kết luận đó không đúng. Sự hàm hồ phát sinh từ sự phân biệt giữa ảnh hưởng của việc gia hạn các phúc lợi đối với toàn thể nền kinh tế và đối với thái độ của các cá nhân. Trên bình diện cá nhân, báo cáo đã thấy một mức gia tăng 0.4% trong tỉ lệ thất nghiệp - vừa phải, nhưng không đáng kể - với tính cách một kết quả của việc kéo dài các phúc lợi, đúng như những lý do mà các đảng viên Cộng Hòa và tờ Journal nói: “Trợ cấp thất nghiệp khiến cho thất nghiệp dễ chịu đựng hơn, và do đó người ta kéo dài thời gian để tìm kiếm một công việc mới,” ông Valletta nói. Thật vậy, một cuộc nghiên cứu theo dõi tới hết Tháng Mười Một 2010, được thực hiện bởi hai kinh tế gia Valletta và Kuang theo yêu cầu của tạp chí Bloomberg Businessweek, đã nhận thấy một hậu quả hơi lớn hơn, ở mức 0.8%. Nhưng như ông Valletta ghi nhận, nhiều cuộc nghiên cứu khác cho thấy rằng trên phương diện kinh tế vĩ mô (macro-economic), các phúc lợi có thể cải thiện tình trạng kinh tế. Những cuộc nghiên cứu cho thấy rằng các phúc lợi thất nghiệp là một đường lối đặc biệt hiệu nghiệm để kích thích nền kinh tế, bởi vì những người nghèo ít có lựa chọn nào khác hơn là chi tiêu số tiền đó thay vì để dành. Và sự kích thích kinh tế tạo ra việc làm. Một cuộc nghiên cứu vào tháng trước của Viện Chính Sách Kinh Tế đã thấy rằng việc kéo dài các phúc lợi sẽ tạo ra hơn 700,000 việc làm. Thật vậy, vài nhà bình luận đã mô tả thỏa hiệp giảm thuế của ông Obama như một kích thích thứ nhì - phần lớn vì sự gia hạn các phúc lợi. “Những hậu quả riêng rẽ này đối nghịch với nhau,” ông Valletta nói. Do đó vấn đề được đặt ra là: Hậu quả nào lớn hơn, trong tình trạng của Hoa Kỳ hiện nay? Về vấn đề này, ông Valletta minh định: Trong thị trường lao động suy yếu như hiện nay, hậu quả vi mô (micro effects) tương đối nhỏ. “Tôi nghĩ các hậu quả kinh tế vĩ mô, khi xét về vấn đề giảm bớt tỉ lệ thất nghiệp, vượt quá các hậu quả vi mô làm tăng tỉ lệ thất nghiệp,” ông nói. Ðó là quan điểm được sự đồng ý của đông đảo mọi người - mặc dù vài thành viên trong giới báo chí có vẻ đã không nhận thấy điều đó. (n.n.)
|