Home Tin Tức Bình Luận Vườn Hỏi / Ngã

Vườn Hỏi / Ngã PDF Print E-mail
Tác Giả: Nguyễn Phước Đáng   
Thứ Tư, 06 Tháng 4 Năm 2011 16:47

Rừng là bụi rậm.  Vào rừng dễ bị lạc lối, khó ra. Vườn thì được trồng tỉa có hàng ngũ, dễ vào mà cũng dễ ra

Đọc bài “Rừng Hỏi/Ngã” của tác giả Đoàn Văn Phi Long, tôi có cảm hứng viết bài nầy.  Đây là 2 bài góp ý của tôi trên diễn đàn Ngôn Ngữ Việt, vì lúc đó tôi đọc bài “RH/N” được in lại trên d/đ NNV, sau nầy mới đọc được bản gốc trên Web Nước Việt.
Do vậy bài nầy có 2 phần:
Phần A.- Góp ý với ông Đoàn Văn Phi Long.
Phần B.- Học Cách nào để viết đúng chính tả hỏi/ngã.
 
A.- Góp ý với ông Đoàn Văn Phi-Long
 
Kính thưa quí vị độc giả,
Kính thưa ông Đoàn Văn Phi Long,
Tôi xin góp ý đôi điều với ông Đoàn Văn Phi Long về bài “Rừng hỏi ngã”, như sau:

1) Trước hết là nhận xét tổng quát của tôi về bài viết:  Tôi hết lòng cảm phục ông Đoàn Văn Phi Long về những công phu ông đã bỏ ra để viết một bài dài như vậy.  Công phu, vì ông đã truy tầm được quá nhiều những từ ngoại lệ trong việc ứng dụng qui tắc hài thanh, để chứng minh “qui tắc hài thanh đã bị phá vỡ”.  Công phu trong việc đếm ra bao nhiêu chữ Việt viết với dấu hỏi, bao nhiêu viết với dấu ngã, còn tính ra số bách phân của từng loại.  Qui tắc hài thanh bị phá vỡ.  Vậy muốn viết đúng chính tả hỏi ngã chỉ còn cách học thuộc lòng 1500 từ hỏi ngã.
Ông hỏi:  “Liệu có ai có thể nhớ được gần 1500 từ hỏi ngã không?”
Ông trả lời luôn:  “Chắc chắn là không!”
Ông kết luận “Lấy bằng Tiến sĩ có khi còn dễ hơn phân biệt hỏi ngã”
Ông than phiền:  “Người Việt còn không nuốt trôi được mấy cái dấu hỏi ngã thì mấy anh ngoại quốc học tiếng Việt làm sao mà nhớ”.
Sau rốt Ông đề nghị:  “Tưởng cũng nên cải tiến chữ Quốc Ngữ để cho thiên hạ được nhờ và phù hợp với đà tiến hoá của khoa học.”

2)  Tôi lại nhận định, rất tiếc công phu của Ông Đoàn Văn Phi Long nằm trong tinh thần chủ bại, và bài “Rừng hỏi ngã” đưa người đọc, nhứt là giới trẻ, đến với tinh thần chủ bại đó.  Tinh thần chủ bại là “chưa đánh đã nghĩ đến thua trận”.  Ở đây, chuyện học chữ quốc ngữ, tinh thần chủ bại là “chưa học đã viện dẫn mọi lý do không học được, không học nỗi”.  Cái ý tưởng phải học thuộc lòng, phải nhớ rạch ròi 1500 chữ hỏi ngã, mới viết trúng chính tả hỏi ngã làm cho người mới bắt đầu học chữ Việt, muốn bỏ cuộc ngay lúc chưa học.  Mà thực tế có phải như vậy không?  Xin trả lời ngay là “Thực tế không phải như vậy!”
Thực tế là “Vấn đề viết đúng hỏi ngã quả là có khó, nhưng không phải khó đến mức lấy bằng tiến sĩ còn dễ hơn”
Thực tế là “Đã có người viết đúng chính tả hỏi ngã, không đúng 100% thì cũng đúng 95%, thấp hơn là 90%.  Thấp hơn nữa là 80%.  Trung bình cũng trên 60% đối với những người xong Trung học”. (Những số bách phân nầy là độ chừng)
Đối với những người thường xuyên sử dụng chữ nghĩa, đọc nhiều, nhứt là viết nhiều, thì càng lúc càng ít trật chính tả, trong đó có chính tả hỏi ngã.
Anh Tiến sĩ mọi ngành nghề đâu chắc gì luôn luôn đúng 100%.  Anh sai 10% cũng là chấp nhận được rồi.  Vậy một nhà văn, một giáo sư viết tiếng Việt mà sai chính tả hỏi ngã cỡ 5% - 10% là quá tốt rồi.

3) Nhiều người nhận định “Hai chữ khác nghĩa, mà có 2 mặt chữ khác nhau, thì rất tốt.”  Thí dụ, đả đảo và đã qua, 2 chữ đả và đã khác nghĩa, mà có 2 mặt chữ khác nhau, một viết với dấu hỏi, một với dấu ngã thì tốt biết bao.  Cải tiến để tránh chuyện khó khăn chính tả hỏi ngã để viết toàn là đả (như ông Văn Lang Bùi Như Hùng bên Canada) hoặc toàn là đã như Ông Mathew Trần bên Hoa Kỳ, gẫm ra là đưa chữ Việt lùi lại một bước.
Đành rằng chữ viết tiếng Việt cần cải tiến, nhưng cải tiến chỗ nào khác, chứ không phải cải tiến chỗ xoá bỏ dấu hỏi hoặc xoá bỏ dấu ngã.  Vì đó là cải lùi.
Hằng trăm năm nay gần như chữ Việt đã định hình.
Định hình, có nghĩa là chữ nào chết nghĩa chữ đó rồi.  Thí dụ câu viết “Ăn không ăn, tắt đèn đi ngủ.”  Chữ Ăn có nghĩa là nhai và nuốt thức ăn.  Chữ tắt có nghĩa là làm mất đi ngọn lửa.  Ngoài Trung có người nói ra tiếng như vầy “Eng không eng téc đèn đi ngụ”.  Nói thì nghe tiếng như eng, téc,  nhưng viết thì phải viết ăn, tắt.  Cũng như vậy, người Trung, người Nam nói nghỉ ngợi, nhưng khi viết phải viết là nghĩ ngợi, vì chữ Việt đã định hình nghĩ ngợi phải viết với dấu ngã và nghỉ ngơi phải viết với dấu hỏi.  Hai chữ nghỉ và nghĩ khác nghĩa nhau.  Hai từ nghỉ ngơi, nghĩ ngợi được ứng dụng qui tắc hài thanh, để viết đúng chính tả hỏi ngã.

Bây giờ tôi xin góp ý thêm vài chuyện chi tiết, như sau:

1)  Về từ dùng, âm và âm tiết.  Theo tôi, âm là tiếng.  Còn âm tiết là vần.  Vậy nhận định về tiếng Việt chữ Việt thì nên viết như vầy “Tiếng Việt có một số đơn âm và một số đa âm.  Số song âm có rất nhiều.  Còn chữ Việt ta đang dùng là chữ đơn âm tiết.  Chừng nào ta viết dính liền các từ kép thì các từ đó (chữ đó) mới là chữ đa âm tiết.”  Hiện giờ ta viết rời từ sinh viên, kiến trúc sư, mà ta nói rằng đó là từ, là chữ đa âm tiết là không đúng, vì mỗi chữ đó chỉ có một vần (1 âm tiết) mà thôi.  Chừng nào ta viết sinhviên, kiếntrúcsư, thì mới gọi 2 chữ nầy là chữ đa âm tiết được.
(Tôi dùng từ kép cho tất cả những từ phải có nhiều chữ ghép lại mới có nghĩa, chứ không phân biệt ra nhiều thứ, nào từ kép, từ ghép, từ Hán Việt, từ đa âm tiết như Ông Đoàn Văn Phi Long dùng trong bài “Rừng hỏi ngã”.  Vì phân biệt quá tỉ mỉ như vậy chỉ làm rối trí người đọc mà thôi.  Theo tôi, lối phân biệt như vậy chịu ảnh hưởng của các nhà ngôn ngữ ngoài Bắc)

2)  Chuyện qui tắc hài thanh và qui tắc nghịch thanh.  Theo tôi, phân biệt hài và nghịch như Ông Đoàn Văn Phi Long thì cũng thuận lý, ngược lại với hài là nghịch.  Nhưng, làm vậy, người học có cảm giác như có 2 qui tắc ngang ngửa nhau cần phải học hết.  Mà thực ra qui tắc hài thanh là chính, vì khi tạo ra được một qui tắc, thì nó phải chiếm số nhiều.  Vậy những chữ không theo qui tắc đó thì chỉ nên gọi là ngoại lệ để học mà thôi (Tôi nghĩ chắc Ông Đoàn Văn Phi Long làm vậy để làm bấn loạn người đọc, vì người đọc có cảm tưởng phải học tới 2 qui tắc cho chuyện chính tả hỏi ngã)
Theo tôi các từ kép (song âm) có cùng phụ âm hay cùng nguyên âm đầu mới áp dụng qui tắc hài thanh.  Thí dụ, nghĩ ngợi, nghỉ ngơi, lễ lạt, đỡ đần,đả đớt, lắc lẻo,… 
Còn những từ kép mà âm đầu không giống nhau thì không áp dụng qui tắc hài thanh.  Thí dụ, mắc cỡ, lơ đãng, thèo lẻo, ủ rũ, ủ dột, chèo bẻo, dậy mẩy, chò hỏ, …
Có nhiều chữ không phải là từ kép, mà ông Đoàn Văn Phi Long cũng cho là từ kép.  Thí dụ, cũ rích, bở rẹt, dở ẹt, dở khẹt, mỏng te, mỏng lét, mỏng dờn,… Trong 2 chữ, chữ đầu là tĩnh từ, còn chữ sau là trạng từ (bổ nghĩa cho tĩnh từ đứng trước).
Tôi xin ngưng ở đây, dù còn có nhiều chỗ góp ý thêm được.
Trên đây là những nhận xét chủ quan của tôi.  Có điều chi không đúng, kính mong quí vị độc giả và Ông Đoàn Văn Phi Long chỉ giáo.
 
B.- Học cách nào để viết đúng chính tả hỏi/ngã?
 
Nhiều người nhận xét thấy người Bắc viết đúng chính tả hỏi/ngã hơn người Nam và người Trung.  Họ viết đúng dễ dàng, gần như không cần học qui tắc nầy, qui tắc nọ tùm lum, phải nhớ cái nầy, phải nhớ cái khác. 
Chuyện dễ hiểu, Người Bắc nói và đọc có giọng hỏi/ngã.  Nói cách khác, người Bắc nói, đọc chữ dấu hỏi khác với chữ dấu ngã.  Vậy nghe tiếng có giọng dấu nào thì viết chữ với dấu đó.  Chuyện dễ như viết dấu sắc và dấu huyền.  Đâu có ai viết trật dấu sắc thành dấu huyền.
Người Nam và người Trung nói và đọc chữ dấu ngã không được.  Thổ ngơi 2 miền nầy sanh ra con người chỉ có giọng dấu hỏi.  Cái đó làm họ khổ sở về việc dễ viết sai chính tả hỏi/ngã.  Họ phải khổ công tìm mọi cách khắc phục nhược điểm của mình.

Người Nam nhận xét thấy tiếng Việt có rất nhiều lời song âm, 2 tiếng ghép liền nhau để thành lời nói có nghĩa.  Và chữ viết tương ứng phải có 2 chữ ghép liền nhau.  Nhận xét tiếp theo là thường thường các chữ không có dấu thanh, có dấu sắc, có dấu hỏi ở chung nhóm với nhau.  Còn các chữ có dấu huyền, dấu nặng, dấu ngã thì cùng nhóm với nhau.  Vậy từ kép song âm (có 2 chữ) có một chữ hỏi/ngã, mình chưa biết viết thế nào cho đúng, thì nhìn sang chữ ghép kề cận, nếu chữ đó có dấu huyền hay dấu nặng, thì chữ hỏi/ngã phải là chữ dấu ngã.  Trái lại, nếu chữ ghép kề cận mà không dấu, hoặc dấu sắc, thì chữ hỏi/ngã phải là chữ dấu hỏi.  Thí dụ:
- Nghỉ ngơi, chữ nghỉ viết dấu hỏi, vì chữ ngơi kề cận không dấu.
- Nghĩ ngợi, chữ nghĩ viết dấu ngã, vì chữ ngợi kề cận có dấu nặng.
Nói đúng cách “ngôn ngữ học” thì gọi đó là viết hỏi/ngã theo qui tắc hài thanh.

Khi tôi dạy học trò tiểu học, tôi phân định dễ hiểu như vầy:
Những chữ không dấu, dấu sắc và dấu hỏi là thuộc nhóm chữ thanh đứng (gọi là thanh đứng, ý tôi muốn tượng trưng cho âm bổng, tượng trưng cho dấu hỏi đứng thẳng)
Những chữ có dấu huyền, dấu nặng và dấu ngã là thuộc nhóm chữ thanh ngang (gọi là thanh ngang, ý tôi muốn tượng trưng cho âm trầm, tượng trưng cho dấu ngã nằm ngang)
Ấn định thanh đứng, thanh ngang như vậy rồi, tôi đặt ra qui tắc cho học trò học, như sau:
Qui tắc:  “Trong từ kép 2 chữ, cả hai chữ thường cùng nhóm với nhau, thanh đứng thì đứng hết, thanh ngang thì ngang hết.  Có một chữ chưa biết phải viết hỏi hay ngã thì nhìn sang chữ kia xem nó thuộc thanh nào.  Thuộc thanh đứng thì viết dấu hỏi, thuộc thanh ngang thì viết dấu ngã”
Tôi đưa ra một loạt nhiều từ kép làm thí dụ để củng cố qui tắc nêu trên, như: củng cố, lắc lẻo, lỡ làng, lở loét, lở lói, loã lồ, giữ gìn, dữ dằn, dữ dội, ngỡ ngàng, rực rỡ, bảo ban, bão bùng, vất vả, đả đớt, đỡ đần, mở mang, lưỡng lự, ngất ngưởng,…
Tôi còn làm thơ (thơ con cóc) bắt học trò học thuộc lòng để chúng học chính tả hỏi/ngã, như sau:
            Không-sắc-hỏi, gọi là thanh đứng,
            Huyền-nặng-ngã, quả thực thanh ngang.
            Hai bên đối chọi rất rõ ràng:
            Ngang vốn nằm dài viết dấu ngã;
            Đứng thẳng, dấu hỏi dễ gì quên.
                                    *
            Thí dụ có nhiều lắm ai ơi:
            Ngả-nghiêng như té nằm tới nơi,
            Vậy mà viết hỏi, vì thanh đứng;
            Dửng-dưng đâu phải chữ lạ lùng,
Viết hỏi dửng, cũng tại dưng sau.
Em viết ỡm-ờ cùng màu-mỡ,
Viết ngã, bởi dấu huyền sau trước.
            
Tuần sau, học trò khép nép trình với thầy là chữ vỏn vẹn không theo “luật” thanh đứng thanh ngang, vẹn dấu nặng, mà vỏn lại viết dấu hỏi.  Đứa khác lại trình chữ trơ trẽn cũng vậy, trơ không dấu, thanh đứng, mà trẽn lại dấu ngã, thanh ngang.  Tôi mĩm cười, cho đám trẻ biết đó là những cặp chữ ngoại lệ.  Rồi tôi cho bài tập về nhà làm: “Tìm những cặp chữ ngoại lệ về thanh đứng/thanh ngang”  Tôi “dễ dãi” cho chúng hỏi cha mẹ, và lật tìm trong từ điển.  Chúng lần lượt đem vào lớp những chữ ngoại lệ, và tiếp tục bổ sung danh sách nầy cho đến cuối niên học.  Học trò và luôn cả thầy giáo cùng nhau lo học nhớ những chữ ngoại lệ:  vỏn vẹn, trơ trẽn, ễnh ương, đối đãi, nài nỉ, ve vãn, viển vông, riêng rẽ, sành sỏi, minh mẫn, mềm mỏng, ngoan ngoãn, niềm nở, mồ mả…
 
Tôi còn chỉ cách cho học trò ứng dụng qui tắc thanh đứng/thanh ngang đối với một số chữ lẻ, tức chữ đơn, chưa có gì hỗ trợ để viết đúng hỏi/ngã.  Gặp những chữ chưa có cặp có đôi, thì cố tìm chữ láy, chữ đệm ghép vào cho có cặp rồi áp dụng qui tắc hài thanh.  Thí dụ gặp chữ kỹ/kỷ, nếu nghĩa trong câu cho phép ghép được với càng thành kỹ càng thì kỹ dấu ngã; chữ rảnh ghép được với rang thành rảnh rang, thì rảnh dấu hỏi.  Còn có cách tìm xem chữ cùng nghĩa với chữ chưa biết viết hỏi hay ngã thuộc thanh nào, để quyết định theo qui tắc hài thanh.  Thí dụ gặp chữ mảnh vải, chữ cùng nghĩa với mảnh là miếng, thanh đứng, vậy mảnh dấu hỏi.  Còn mãnh hổ, mãnh nầy có nghĩa là mạnh, thanh ngang, vậy mãnh dấu ngã.
Sau một vài tuần, có một trò hỏi tôi “Thưa thầy, gặp một chữ hỏi/ngã đứng một mình, em tìm không ra chữ ghép được với nó, thì làm sao viết đúng hỏi/ngã?”
Tôi trả lời tỉnh bơ làm cả lớp cười ồ: “Gặp trường hợp như vậy thì chỉ còn cách tra từ điển, để viết đúng hỏi/ngã!”
Học trò cười ồ, vì nghĩ thầy nói giỡn.  Tôi phải nghiêm chỉnh cho chúng biết đó là sự thật.  Nhiều nhà văn coi trọng trách nhiệm khi gặp những chữ lạ làm mình mờ ớ về chính tả đều phải tra từ điển, kể cả chính tả hỏi/ngã.

Trước hành lang lớp tôi có tấm bảng “công cộng” để dạy chính tả cho toàn trường.  Ông Hiệu Trưởng cắt tôi lo viết hai câu văn vần hoặc văn xuôi có chứa 2 chữ gần đồng âm mà khác chính tả, trong đó có những chữ hỏi/ngã, cứ đầu tuần là thay câu mới, đại khái như sau đây:
Lỡ làng duyên kiếp, ngỡ ngàng hồng nhan.
Bông hoa rực rỡ, nhờ đất màu mỡ.
Ôm ấp nỗi niềm khổ đau trong cuộc sống nổi trôi.
Cứ vui vẻ lên, vẽ vời chi chuyện muộn phiền…

Tôi có đọc đâu đó biết được, người ta quan sát thấy những từ Hán Việt hỏi/ngã khởi đầu bằng các phụ âm sau đây: D, L, M, N, Ng, Nh, V thì viết dấu ngã, như diễm (lệ), lưỡng (lự), mỹ (mãn), (nam) nữ, (ngôn) ngữ, (thạch) nhũ,  vĩnh viễn, …
Còn lại là viết dấu hỏi, trừ một số ngoại lệ như sau:  hiện hữu, bằng hữu…, tuẫn tiết, bĩ cực, bãi nại, bãi chức,…

Mới đây, tôi đọc thấy trên diễn đàn Viện Việt Học cho biết Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đặt ra một câu thiệu để giúp mình nhớ như một qui tắc hỏi/ngã: “Mình Nên Nhớ Viết Là Dấu Ngã”  Nhớ câu thiệu nầy là nhớ các phụ âm đầu M, N, Nh, V, L, D, Ng.
G/s NTC có nêu ra 24 chữ ngoại lệ viết dấu ngã:  Kỹ (kỹ thuật, kỹ nữ), Bãi (bãi chức, bãi khoá), Bĩ (bĩ cực, vận bĩ), Hữu (bằng hữu, hữu ích, hữu khuynh), Phẫu (giải phẫu), Cữu (linh cữu), Tiễn (tiễn biệt, tống tiễn, hoả tiễn), Tiễu (tiễu trừ, tiễu phỉ), Trẫm, Trĩ (ấu trĩ, chim trĩ), Trữ (tích trữ), Huyễn (huyễn hoặc), Hỗ (hỗ trợ), Hãm (giam hãm), Đãng (phóng đãng, quang đãng), Quẫn (khốn quẫn, quẫn bách), Xã (xã hội), Hoãn (trì hoãn), Quĩ (quĩ tích, thủ quĩ), Suyễn (bệnh suyền), Cưỡng (cưỡng ép), Tuẫn (tuẫn nạn), Đễ (hiếu đễ), Sĩ (kẻ sĩ, văn sĩ)

Tôi có dạy học sinh cách viết chữ hỏi/ngã Hán Việt nầy, nhưng lúc đó tôi không biết câu thiệu của G/s. NTC.  Vả lại, học sinh tiểu học không phân biệt được từ Hán Việt và từ thuần Việt. (Ngay bây giờ, nhiều người trẻ Việt ở ngoại quốc cũng không phân biệt nổi tiếng Hán Việt và tiếng thuần Việt.).
Kế luận:  Đối với người Bắc có học, thì chữ hỏi/ngã cũng đơn giản như chữ sắc/huyền, không cần học gì hết cũng viết đúng, nếu có người nói và đọc đúng giọng Bắc.  Còn người Nam thì thật vất vả trong việc viết đúng chính tả hỏi/ngã.  Họ phải tìm cách phân loại chữ hỏi/ngã để đưa vào qui tắc nầy, qui tắc kia để học.  Họ không cho chữ hỏi/ngã mọc ra như rừng rậm, mà sắp xếp chữ hỏi/ngã thành như vườn cao su, có hàng ngũ dọc ngang, gom những chữ hỏi/ngã ngoại lệ vào một khu vực để “điểm danh” mà nhớ mặt, không cho vào khu vườn đã có trật tự.
Nhờ những công trình như vậy, nên những ai chịu khó quan tâm thì cũng viết trúng chính tả hỏi/ngã, không trúng 100%, thì cũng sai ở mức độ chấp nhận được.