Home Tin Tức Bình Luận Nam Bắc Phân Tranh Tại Hải Ngoại

Nam Bắc Phân Tranh Tại Hải Ngoại PDF Print E-mail
Tác Giả: Nguyễn Tường Tâm   
Thứ Năm, 19 Tháng 5 Năm 2011 04:45

Không ai có thể xoá bỏ một đoạn đời mà mình kiêu hãnh,

vì thế sự ngăn cách của 2 thế hệ trưởng thành sau 1954, đã từng, dù không hoàn toàn tự nguyện, tham gia vào cuộc chiến Nam Bắc phân tranh 1954-1975 là một điều tự nhiên. 35 năm sau ngày đất nước thống nhất về mặt địa dư, không những sự phân cách trong lòng người vẫn còn mà đôi khi còn tiến tới sự phân tranh không kém mãnh liệt. Chính bởi thế ngay trong tập thể những người Việt bỏ nước ra đi trốn chế độ Cộng Sản cũng có sự phân tranh mãnh liệt giữa người Việt miền Bắc và người Việt miền Nam.

Trong thời gian tôi ở trại tị nạn Màn Dìn ở Hồng Kông (1989), trong trại có xuất bản bản tin hàng tuần. Một hôm ban lãnh đạo hội cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hoà trong trại mà chủ tịch là cựu Thiếu Tá Hùng, khoá 20 Võ Bị, hiện ở Nam Cali, cho người mời tôi tới họp khẩn. Khi tới nơi anh em cho biết trong số báo sắp ra tuần này có một bài của mấy người miền Bắc chửi anh em cựu quân nhân VNCH và hỏi ý kiến tôi xem sẽ phải đối phó ra sao. Suy nghĩ một hồi tôi nói để tôi gặp ông đại diện Cao Uỷ Tị Nạn nói chuyện với ông ta xem sao. Trong văn phòng cao uỷ của trại, ngoài ông cao uỷ còn thì nhân viên là thuyền nhân, trong đó có cả thuyền nhân miền Bắc. Những thuyền nhân làm trên mấy văn phòng của trại hay văn phòng cao uỷ đa số là thông dịch viên (interpreter). Thông dịch viên có thể nói là những "viên chức tị nạn cao cấp nhất" trong trại, là những người có ảnh hưởng rất lớn tới các chương trình của trại. Bởi thế mấy thông dịch viên người miền Bắc mới đưa mấy bài chửi các cựu quân nhân VNCH vào tờ báo. Những thông dịch viên người miền Nam không muốn (hay không dám) trực tiếp cá nhân đương đầu với mấy thông dịch viên miền Bắc vì sợ đầu gấu miền Bắc trả thù nên thông báo tin tức để hội cựu quân nhân có kế hoạch đối phó.

Hôm sau gặp đại diện Cao Uỷ Tị Nạn, một thanh niên khoảng 30 tuổi người Anh, tôi đề cập tới vấn đề tờ báo thì ông cao uỷ cho biết rằng Hồng Kông là xứ tự do, ngay cả cộng sản cũng được quyền hoạt động. Đã dự trù luận điểm này từ trước nên tôi lý luận rằng tôi đồng ý với ông là Hồng Kông là xứ tự do, nhưng trại tị nạn này là trại của những người tị nạn cộng sản và ngân sách của Liên Hiệp Quốc tài trợ cho những nạn nhân cộng sản. Sẽ thực là vô lý khi dùng ngân sách tị nạn cộng sản để nuôi cán bộ cộng sản và hỗ trợ các hoạt động của họ. Họ có thể hoạt động và vận động cho cộng sản ở Hồng Kông bên ngoài trại tị nạn cộng sản chứ không thể ở bên trong trại tị nạn cộng sản này. Ông đại diện cao uỷ đuối lý và phải chấp nhận cho xé bài báo đó trước khi cho phát hành. Ngoài ra tôi còn yêu cầu ông phải cho một đại diện của người tị nạn miền Nam làm phiên dịch trong uỷ ban để kiểm soát các ấn loát phẩm trước khi cho phổ biến. Ông ta đồng ý và hội cựu quân nhân đã đưa cho tôi tên một cựu sĩ quan để đưa vào làm (dĩ nhiên có lương như chúng tôi).

Trước đó trong văn phòng Cao Uỷ Tị Nạn vẫn có mấy thông dịch viên người miền Nam nhưng họ không tham gia việc biên soạn bản tin của trại. Một yêu cầu thứ 3 mà hội cựu quân nhân VNCH đề nghị tôi đòi hỏi là yêu cầu Cao Uỷ Tị Nạn sa thải 2 thông dịch viên người miền Bắc đó. Dĩ nhiên đòi hỏi này không được ông cao uỷ chấp thuận. Ngay khi nghe yêu cầu của anh em cựu quân nhân tôi đã thấy đòi hỏi này khó được chấp thuận vì vô lý nhưng tôi vẫn đưa ra với đại diện Liên Hiệp Quốc. Sau đó, cũng chiều ý ban đại diện hội Cựu Quân Nhân VHCH, tôi đề nghị đại diện Liên Hiệp Quốc cho di chuyển 2 thông dịch viên đó sang khu vực hoàn toàn chỉ có người miền Bắc, đối diện với khu vực hỗn hợp Nam Bắc của chúng tôi. Lý luận của tôi vừa hơi có tính cách đe doạ vừa có vẻ có thiện ý xây dựng là nếu không di chuyển 2 thông dịch viên đó thì tôi e rằng sẽ có đổ máu cho 2 anh đó và tôi không nghĩ là tôi có thể giúp giảm căng thẳng giữa 2 phe trong trại.

Vị đại diện Liên Hiệp Quốc cho biết ông không thể di chuyển 2 thông dịch viên đó nhưng ông sẽ cho 2 thông dịch viên đó biết nguy cơ để tự quyết định. Mấy hôm sau vị đại diện Liên Hiệp Quốc gặp tôi cho biết ông ta đã thuyết phục nhưng 2 thông dịch viên đó không chịu chuyển trại. Tôi hiểu rằng đây là thái độ của 2 anh thách thức người miền Nam. Và tôi cũng biết ngay rằng người miền Nam trong trại không đủ hung dữ để thực hiện ý muốn bằng bạo động. Với thái độ lo ngại bất an trong trại, vị đại diện Liên Hiệp Quốc thuyết phục tôi rằng: "Ông hãy bảo với người miền Nam của ông đừng bạo động. Lâu nay người miền Nam các ông được tiếng là tốt, có cơ hội đi tị nạn. Trong khi như ông biết đấy, người miền Bắc đâu có cơ hội tị nạn như các ông. Họ là những người xấu". Nói tới đó tôi thấy đôi mắt ông long lanh như có nước. Tôi đã cộng tác và chứng kiến lòng tốt của nhiều người ngoại quốc trong khi giúp đỡ thuyền nhân Việt Nam tại Hồng Kông, nhưng chính thuyền nhân Việt Nam lại chia rẽ, chém giết lẫn nhau. Đôi mắt long lanh như có nước của thanh niên trẻ người Anh này làm tôi xúc động, và hơi xấu hổ. Tôi nói với ông, tôi sẽ cố gắng nhưng tôi không bảo đảm kết quả.

Cách sống của người hai miền cũng cách biệt quá nhiều khiến chính quyền Hông Kông phải có chính sách tách biệt hai nhóm người để bảo vệ các thuyền nhân miền Nam. Có lẽ trại tị nạn duy nhất ở Hồng Kông có một số nhỏ thuyền nhân miền Bắc được cho ở chung với người miền Nam trong một khu vực không có ngăn cách là trại Màn Dìn nơi tôi ở.

Trại Màn Dìn là một trại lớn có lẽ đứng thứ nhì sau trại White Head (trại Đầu Bạc). Tôi cũng nên kể thêm rằng sau này sang Mỹ, tôi mới biết trại Màn Dìn chính là trại có đoàn người khá đông từ San Jose, Hoa Kỳ, dẫn đầu bởi nhà báo Đỗ Văn Trọn và ca sĩ Mai Hân, theo bà Thanh Hải, dự định vào thăm các thuyền nhân nhưng không được vào trại nên đã ngồi ở trên đường dẫn vào trại để cầu nguyện cho thuyền nhân. Trại Màn Dìn có 2 khu Nam Bắc riêng biệt với cổng an ninh ngăn cách. Khu miền Nam có 21 căn nhà, mỗi căn chứa khoảng 200 người. Cái khu miền Nam này là khu vực duy nhất tại Hồng Kông có gần một nửa là người miền Bắc ở chung với người miền Nam mà không có hàng rào ngăn cách. Số người miền Bắc được cho ở chung này kém về số lương nên không gây ra đe doạ cho an ninh. Tuy nhiên cũng khiến người miền Nam “hơi” lo ngại.

Đầu tiên là sự lo ngại bị thuyền nhân miền Bắc cướp bóc, kể cả cướp bóc những giấy tờ quan trọng cho cuộc thanh lọc tị nạn. Sự lo ngại của thuyền nhân miền Nam sau này cũng tới cực điểm khiến trại phải kêu gọi những ai có giấy tờ hay tài sản gì quý cần đưa trại giữ hộ thì mang nộp, khi nào cần thì lên lấy lại. Tuy hướng dẫn chung như vậy nhưng chủ đích chỉ nhằm bảo vệ thuyền nhân miền Nam tránh sự cướp bóc của người miền Bắc. Tình hình đe doạ cướp bóc căng thẳng tới độ trại phải cho cảnh sát mang bàn tới đặt tại từng căn nhà, ra lệnh mọi người ở nguyên chỗ ở của mình, rồi những ai có giấy tờ hay tài sản quý giá mang tới bàn nạp cho cảnh sát. Điều buồn cười là tuyệt đối không có thuyền nhân miền Bắc nào có giấy tờ hay tài sản gì cần gửi cảnh sát, chỉ có thuyền nhân miền Nam. Ngoài tài sản, cái mà thuyền nhân miền Bắc muốn cướp của người miền Nam là các giấy tờ tuỳ thân và các chứng minh bị cộng sản đàn áp của họ như giấy cựu quân nhân, giấy ra trại cải tạo ... Lúc bấy giờ với những giấy tờ chứng minh sự đàn áp đó thuyền nhân miền Nam có nhiều hy vọng đi tị nạn hơn cho nên thuyền nhân miền Bắc vì ganh tị, muốn cướp để thủ tiêu các giấy tờ đó để biến cơ hội đi tị nạn giữa thuyền nhân hai miền giống nhau.

Chính sách rõ ràng của Hồng Kồng là tách rời các thuyền nhân miền Nam ra khỏi thuyền nhân miền Bắc, nên tình trạng ở chung này chỉ là tạm thời chờ cho trại Đảo Bò, một hòn đảo hoang trước kia, được xây cất thành một trại khang trang có tên là trại Tai A Châu. Khi trại Tai A Châu được hoàn tất, lập tức Hồng Kông cho chuyển người miền Nam ra đó. Đó là trại dành riêng cho người miền Nam. Vì người miền Nam được tiếng có kỷ luật nên trại Tai A Châu cho phép thuyền nhân được ra khỏi trại đi chơi trên đảo hay ra bờ biển bất cứ lúc nào, dù là ban đêm.

Công việc chuyển khoảng bốn ngàn thuyền nhân miền Nam từ trại Màn Dìn ra trại Tai A Châu phải từ từ trong khoảng một tuần. Để bảo đảm an toàn, họ khoanh vùng trong trại cho di chuyển từng khu vực nhỏ. Di chuyển theo lối cuốn chiếu, khởi đầu là từ bên trong cùng. Khi được gọi tên mang hành lý đi thì cũng có người được gọi tên trước, người được gọi sau. Khoảng cách nhiều lắm chỉ mấy tiếng đồng hồ thôi, nhưng những ai chậm được gọi cũng rất hoang mang hồi hộp, chỉ sợ bị người miền Bắc thừa cơ hội người miền Nam còn ít tới trấn lột, cướp bóc.

Cuối cùng cũng có một gia đình người miền Trung bị lọt danh sách. Gia đình này hiện đang ở San Jose. Có lẽ vì văn phòng trại tưởng đó là gia đình miền Bắc. Đây là gia đình của một cựu sĩ quan cảnh sát miền Nam. Ông ta cũng là một võ sư nổi tiếng ở Huế trước 1975. Khi các thuyền nhân miền Nam khác trong khu vực nhỏ của ông được gọi đi hết rồi, ông ta sợ quá không dám trở về chỗ ở nữa. Trong khi chờ đợi, mấy anh em miền Nam đưa ông ta tới chỗ tôi ở để họp về trường hợp của ông. Chúng tôi quyết định một mặt liên lạc với đại diện Liên Hiệp Quốc để cho gia đình ông ấy đi trong cùng đợt với những người đã được gọi tên, một mặt tôi bảo ông ấy cứ ở gần chỗ với tôi thì không đến nỗi nào nguy hiểm bởi vì ít ra là trên cái giường ba tầng của gia đình tôi cũng đã từng tiếp nhiều anh chị em miền Bắc.

Một lần, có lẽ vào năm 1991, tất cả anh chị em miền Bắc thấy cơ hội đi tị nạn của họ có vẻ khó khăn đã quyết định biểu tình. Ban lãnh đạo biểu tình kéo tới chỗ gia đình tôi họp để hỏi ý kiến, vì trong đời họ chưa bao giờ thấy một cuộc biểu tình nào, nên họ không biết làm thế nào để tổ chức một cuộc biểu tình. Tôi cũng nhìn thấy một mối nguy về an ninh cho người miền Nam là người miền Bắc cảm thấy bực bội với người miền Nam vì người miền Nam thờ ơ với ý muốn biểu tình của họ. Bà vợ tôi thấy tình hình bắt đầu có vẻ hơi căng thẳng như vậy nên bảo nhỏ với tôi không nên liên hệ với công việc chuẩn bị biểu tình của người miền Bắc. Vợ tôi nói, biểu tình thì người miền Bắc có đánh gia đình mình đâu mà anh cần tham gia. Tôi bảo vợ tôi đừng sợ. Thứ nhất, nếu tôi không giúp họ thì ai giúp? Thứ nhì, nếu tôi không giúp họ thì thế nào cũng đi tới căng thẳng có thể đổ máu giữa 2 nhóm người Nam, Bắc vì một bên cần biểu tình, một bên không.

Tôi phải giải thích cho người miền Bắc: Mục tiêu, đối tượng và phương cách biểu tình cũng như là những việc cụ thể cần làm trước, trong và sau khi biểu tình. Tôi giải thích cho họ về mục tiêu biểu tình là đánh động dư luận qua giới truyền thông, báo chí. Đối tượng là giới truyền thông, báo chí chứ không phải ban chỉ huy trại, như vậy không có gì phải bạo động cả. Dĩ nhiên là giới truyền thông không được vào trại nhưng họ sẽ đứng trên con đường ở đỉnh núi dẫn vào trại và họ trông thấy cuộc biểu tình. Ngoài ra ban chỉ đạo biểu tình phải viết một thỉnh nguyện thư gửi cho đại diện Liên Hiệp Quốc. Thỉnh nguyện thư này cũng sẽ được chuyển ra ngoài cho giới truyền thông. Họ hỏi tôi trong lúc biểu tình thì phải làm gì. Mặc dù đã biết trước là trong đời người miền Bắc chưa bao giờ biểu tình nhưng tôi vẫn thấy buồn cười trước câu hỏi này. Tôi phải nói với họ rằng đâu có làm gì ghê gớm đâu, chỉ cần kéo dài thời gian biểu tình và trong suốt thời gian đó đoàn người chỉ hô lớn những đòi hỏi thôi. Tiếp đó họ nêu vấn đề là họ sợ rằng người miền Nam trong trại sẽ không tham gia biểu tình với họ. Tôi giải thích cho họ biết rằng, trong xã hội tự do, chỉ những ai có quyền lợi hay quan tâm tới vấn đề họ mới biểu tình thôi. Trong trường hợp này vì người miền Nam sẽ được chấp nhận cho đi tị nạn hết (đó là chính sách của Liên Hiệp Quốc vào thời điểm đầu của cuộc thanh lọc vào khoảng 1991) cho nên họ không có lý do gì để tham gia thì quý anh chị cũng đừng bận tâm. Nếu không có sự giải thích trước như vậy thì chắc chắn chuyện người miền Bắc muốn biểu tình, người miền Nam không muốn sẽ đưa tới chém giết đổ máu. Với sự giúp sức của tôi, cuộc biểu tình của anh chị em miền Bắc tại trại Màn Dìn diễn ra êm đẹp, không có người miền Nam tham dự nhưng không có đổ máu giữa 2 bên. Trong khi ở nửa trại bên kia, số thuyền nhân miền Bắc đông hơn nhưng không tổ chức biểu tình được vì không có người miền Nam giúp sức góp ý. Bây giờ nghĩ lại, tôi không biết đó có phải là cuộc biểu tình đầu tiên của thuyền nhân miền Bắc tại Hông Kông hay không. Trước đó dường như thuyền nhân miền Bắc chỉ biết bạo loạn chứ không biết biểu tình.

Ngày đầu tiên, 21/06/1989, cũng như mọi thuyền tị nạn khác, thuyền của tôi được cảnh sát Hông Kông kéo vào đậu trong bãi tị nạn có tên là Đảo Bò. Đây là một trong đám đảo nhỏ. Trước kia được chủ nhân dùng để nuôi heo và bò cho nên thuyền nhân chúng tôi gọi là Đảo Bò. Tên thực của đảo là Tai A Châu. Vào tháng 06/1989, đây là trại tiếp nhận đầu tiên trong khi chờ chính quyền sắp xếp đủ chỗ chứa trong đất liền. Vì số người Việt tị nạn tới mỗi ngày không dưới 300 người nên trong đất liền Hông Kông không xây kịp chỗ chứa. Những người mới tới thường phải ở đây khoảng 2 tuần lễ. Ngay lúc vừa được cảnh sát đưa mấy người đại diện thuyền lên bờ làm thủ tục nhập trại, tôi đã thấy thuyền cấp cứu chở đi bệnh viện một nạn nhân bị cướp bởi chính thuyền nhân khác. Sợ quá, suy nghĩ một hồi tôi quyết định liều đứng dậy yêu cầu chính quyền trại bảo vệ. Tôi nói với người mà sau này tôi biết là Trung Sĩ Nhất thường vụ quản lý trại rằng “Tôi là một sĩ quan miền Nam, tôi có khả năng tự vệ chống lại cướp, nhưng đây là Hồng Kông, một xứ sở có luật pháp nên tôi phải tôn trọng luật pháp Hồng Kông và tôi yêu cầu được bảo vệ tránh bị cướp như trường hợp vừa rồi”. Ông ta nhìn tôi mặt lạnh như tiền. Tôi thấy "không ăn" rồi. Ngay lập tức tôi quyết định lập lại yêu cầu nhưng cố nhét làm sao để có chữ "Quân Đội Hoa Kỳ" (US Army). Tôi nói tiếp "Tôi là cựu sĩ quan liên lạc của quân đội Hoa Kỳ" và lập lại yêu cầu. Khi nghe tới chữ US Army tôi thấy mắt ông ta nhấp nháy, tôi biết là “ăn tiền”. Ông ta nhìn tôi từ đầu tới chân rồi bảo tôi ở lại trong khi mấy người đại diện của các thuyền kia được đưa trở lại thuyền của họ. Thực sự tôi biết có cái chức "sĩ quan liên lạc" (liaison officer) là trước kia trong thời gian ở bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 1, tôi có thời gian ngắn được gửi sang bộ Tư Lệnh Lữ Đoàn 1/5 Cơ Giới Hoa Kỳ (1/5 Mechanized Division) để làm sĩ quan liên lạc hành quân.

Toàn bộ 25 người thuộc 3 gia đình trên con thuyền của tôi được đưa vào một khu biệt lập hẳn với mấy ngàn thuyền nhân khác. Khu vực này có những dẫy chuồng heo, và thuyền nhân được cho ở trong mấy cái chuồng heo đó. Cũng giống như ở nhà quê Việt Nam, mỗi chuồng heo vuông vức mỗi cạnh khoảng 4 m. Trong đó còn dấu vết của máng ăn, rãnh nước để rửa chuồng, chỗ hốt phân heo. Cứt heo và cám heo vẫn còn. Chúng tôi phải lấy nước rửa chuồng heo để ở. Thỉnh thoảng vẫn thấy những con dòi bò cạnh chỗ nằm. Nhưng dù sao cũng hơn mấy ngàn thuyền nhân khác là chỗ này còn có mái che là mái chuồng heo. Tới nơi tôi thấy toàn bộ thuyền nhân người Việt gốc Hoa đã ở trong khu vực này. Tất cả những thuyền nhân Việt gốc Hoa đều được cho ở riêng để bảo vệ. Ngay khi vừa rời Việt Nam, giữa người Việt và người Việt gốc Hoa đã có sự chia rẽ rồi, cho dù là họ sinh đẻ đã nhiều đời tại Việt Nam. Thuyền chúng tôi là những người miền Nam duy nhất được bảo vệ chung với người Việt gốc Hoa. Một kỷ niệm nho nhỏ. Chỗ chuồng heo đó là chỗ duy nhất các phái đoàn hay phóng viên báo chí tới thăm đảo có thể tới gặp thuyền nhân để làm phóng sự, phỏng vấn. Những chỗ khác toàn là rừng hoang nên các đoàn khách đâu biết đường đi mà tới thăm được. Một hôm có một cô người nhỏ nhắn, xinh xinh, trạc ba mươi tuổi tới phỏng vấn thuyền nhân. Cô ta giới thiệu là làm cho chương trình Việt Ngữ đài BBC. Tôi ngưỡng mộ lắm. Vì từ trong tù cải tạo tôi đã ước mơ được làm cho đài BBC hoặc VOA. Lúc đó chỉ là một ước mơ viển vông thôi. Nhưng đời có ai ngờ nếu mình cứ mơ những giấc mơ "viển vông" và cố thực hiện nó thì cũng có cơ may thành đạt. Còn hơn là không mơ gì cả. Thế là 10 năm sau, 1989-1999, sau thời gian học đại học Hoa Kỳ, tôi đã trúng tuyển vào ban Việt Ngữ đài VOA và sang thủ đô Washington làm việc trong một toà building lớn có vài ngàn nhân viên ở cạnh trụ sở Quốc Hội Hoa Kỳ.

Trên đảo ngoại trừ vài kiến trúc của chủ đảo mà cảnh sát đang xử dụng để quản lý trại không có một kiến trúc nào khác. Trừ một số nhỏ nằm trong các chuồng heo cũ, tất cả thuyền nhân phải căng lều nằm ngoài trời. Lều do trại phát. Những ngày sau đó tôi chứng kiến 100 phần trăm tất cả những thuyền nhân mới tới đảo đều bị người miền Bắc cướp. Cướp khủng khiếp tới độ gần như công khai mà cảnh sát không làm gì được vì nạn nhân không dám khai báo và làm nhân chứng.

Người miền Bắc chiếm đa số trong tổng cộng khoảng 6 ngàn người trên đảo. Họ tự động phân chia ra ở từng khu vực riêng rẽ: Khu Hải Phòng, khu Đồ Sơn, khu Hà Nội, khu Quảng Ninh. Dân miền Bắc khác địa phương cũng không sống hợp nhất với nhau. Tôi không biết trước khi người cộng sản chiếm miền Bắc năm 1954 thì người miền Bắc có óc kỳ thị địa phương nặng nề như thế không. Nhóm nào đông thì nhóm đó chế ngự trại. Nhóm Quảng Ninh là đông nhất, có nghĩa là mạnh nhất. Thời gian tôi vừa tới trại thì cũng là lúc còn dư âm của anh chàng Hoa Hùng, một xếp đầu gấu người miền Bắc vừa được chuyển vào đất liền. Hoa Hùng đi thì không có tay nào làm trùm của trại mà có nhiều băng nhóm nổi lên theo danh xưng địa phương. Mỗi băng nhóm hùng cứ một khu vực. Người Việt gốc Hoa, vì biết tiếng Hoa để giải thích với trại nên họ được bảo vệ ở một khu vực riêng ngay khi mới tới. Riêng người miền Nam thì không ai bảo vệ và cũng không có nhóm đầu gấu nào để đương đầu với các nhóm đầu gấu miền Bắc. Người miền Nam hiền quá và trở nên một cộng đồng bơ vơ giữa một xã hội không luật lệ.

Hai tuần lễ sau, khi gia đình tôi và một số người vừa được chuyển tới trại khác thì tại trại Đảo Bò xẩy ra bạo động làm rung động Hồng Kông và xấu mặt người Việt Nam. Cuộc bạo động gây ra bởi người miền Bắc. Cuộc bạo động không lý do nhưng mức độ khiến các thuyền nhân người Việt gốc Hoa và miền Nam ghê sợ và người Hồng Kông khinh bỉ. Người miền Bắc chiếm trại, chiếm các kho thực phẩm. Cảnh sát Hồng Kông phải rút ra khỏi đảo. Kể từ lúc đó người miền Bắc hoàn toàn làm chủ trên đảo và họ tự do cướp bóc, hãm hiếp.

Trong bài báo "Vietnam Refugees Riot in Hong Kong" do Barbara Basler, viết đặc biệt cho tờ The New York Times xuất bản ngày mùng 3 tháng 09/1989, tác giả đã viết, “HONG KONG, Sept. 2— Chủ nhật tuần trước, 1000 người Việt Nam đã bạo động trên đảo Tai A Châu, và mặc dù đã xử dụng hơi cay, một toán nhỏ cảnh sát tại đó đã không thể phục hồi được an ninh và buộc phải rút ra khỏi đảo. Sau một đêm bị tấn công, cướp bóc và 5 vụ hãm hiếp, hòn đảo, nơi có 5500 người Việt Nam bị tạm giữ, đã được cảnh sát chiếm lại khi các phi cơ trực thăng chuyển hơn 350 cảnh sát chống bạo động tới. Cảnh sát đã bắt 12 người và một người bị truy tố tội hãm hiếp. Đảo không có điện, không chỗ đi tiêu tiểu … Các thuyền nhân phải sống trong những lều tạm, giữa các đống rác và phân người … Các giới chức nói, “Trật tự hoàn toàn bị tan vỡ”.

Bản tin vắn tắt đã thấy rùng mình. Nhưng sẽ rùng mình hơn khi đã từng ở đó và may mắn được ra đi trước đó không lâu rồi được nghe chính những bạn bè, người quen của mình thuật lại ngay sau biến cố đó. Sau này mấy người miền Nam kể lại với tôi rằng khi đổ quân vào tái chiếm lại đảo, cảnh sát chống bạo động và đại diện Liên Hiệp Quốc đã tìm cách cứu những người Việt gốc Hoa và người miền Nam ra khỏi đảo trước. Cuộc giải cứu như giải cứu con tin bị bắt cóc. Có lẽ người đầu tiên được giải cứu là cựu Thiếu Tá Sơn, cựu giảng viên trường Võ Bị Đà Lạt. Lý do trại biết tới ông Sơn là vì ông làm phiên dịch cho một cơ quan thiện nguyện và cảnh sát cũng cần những người như ông để phân biệt đâu là người miền Nam. Trên đường tiến vào chiếm trại, cảnh sát gọi đích danh để tìm kiếm ông Sơn và những thông dịch viên khác. Người Việt gốc Hoa thì được giải cứu hầu như toàn bộ vì họ nói được tiếng Hoa. Người miền Nam thì được giải cứu ít thôi vì cảnh sát không phân biệt được ai là người miền Nam, ai là người miền Bắc. Chỉ những người được các phiên dịch viên như ông Sơn xác nhận, hay biết tiếng Anh để tự giới thiệu thì mới được cho lên thuyền cấp cứu rời đảo. Người miền Bắc tuyệt đối không được cho lên thuyền cấp cứu.

Bản tin cho biết cảnh sát có bắt một số nghi can nhưng tôi biết rồi những người này cũng sẽ được thả ra ngay sau đó bởi vì luật lệ Hồng Kông rất là văn minh, dân chủ, muốn kết tội một người thì phải có đầy đủ bằng chứng, cần rất nhiều thời gian điều tra, với lời khai của rất nhiều nhân chứng. Thì giờ và ngân quỹ đâu mà họ điều tra và nạn nhân nào dám khai báo khi trong trại băng đảng bạn bè và thân quyến của nghi can còn đầy rẫy. Bản tin nói rằng có 5 vụ hãm hiếp. Nhưng bạn bè tôi cho biết những cuộc hãm hiếp nhiều hơn như thế nhiều lần. Họ còn nói rằng phụ nữ Việt gốc Hoa thì bị hãm hiếp gần như 100 phần trăm. Phụ nữ miền Nam thì bị hiếp ít hơn. Nhưng tất cả các phụ nữ đều sợ hãi phải làm cho đầu tóc bù xù, bôi đất lấm lem lên mặt cho xấu đi. Người phụ nữ bạn với gia đình tôi đã thuật chị phải bôi mặt cho lem luốc, xấu đi hầu thoát nạn. Chị tên là Đinh Thị Thu Vân, hiện ở Hoa Kỳ.

Cuộc chiếm đảo của đầu gấu miền Bắc còn man rợ hơn nữa khi mấy ngày sau cảnh sát Hồng Kông phát hiện ra sự kiện là người miền Bắc còn đi “ị” cả vào mấy bồn chứa nước ăn cung cấp cho chính thuyền nhân.

Những hành động và cung cách sống như vậy khiến các người ngoại quốc cũng như viên chức Hồng Kông hoạt động trong trại đánh giá thuyền nhân miền Bắc thấp hơn thuyền nhân miền Nam thật nhiều.

Sau 2 tuần ở Đảo Bò, gia đình tôi cùng với 1600 người khác được chuyển tới trại Thuyền Châu. Trại này cũng vẫn là tạm thời để chờ trong đất liền xây xong trại mới. Trại Thuyền Châu gồm 4 cái phà nhỏ, mỗi cái chứa được 400 người. Vì thế thuyền nhân gọi đây là trại Phao Nổi. Diện tích dành cho mỗi gia đình thật hẹp. Gia đình tôi 6 người được một diện tích bằng một chiếc chiếu nhỏ. Chỉ đủ chỗ cho vợ chồng tôi nằm ôm thùng quần áo. 4 đứa con và cháu phải mắc võng nằm ngay sát trên mặt vợ chồng tôi. Chúng tôi sống như thế trong 4 tháng.

Các phao này được để cặp bờ một đảo rất nhỏ cách đất liền Hồng Kông một eo biển hẹp có thể bơi qua dễ dàng. Eo biển này là đường lưu thông nườm nượp của các chiếc tầu cao tốc nối liền Hông Kông và Macau. Nhưng mỗi buổi tối, đều có những toán thanh niên miền Bắc bơi vào đất liền đi ăn cắp đồ ở Hồng Kông. Liên Hiệp Quốc và cảnh sát Hồng Kông biết nhưng họ khuyên răn thiếu điều muốn năn nỉ rằng, “Xin quý vị đừng bơi như thế, rất là nguy hiểm cho mạng sống của quý vị”. Thế nhưng các đầu gấu với sự hỗ trợ của chính gia đình họ đã hàng đêm thực hiện những phi vụ phạm pháp như vậy. Những vụ trấn lột diễn ra hàng ngày nhưng cảnh sát không làm gì được vì nạn nhân không dám khai báo. Đầu gấu trừng phạt nhau mỗi đêm. Chúng để đối phương đứng ở giữa, chúng đứng vòng tròn xung quanh. Kẻ thù bị đánh, đá văng từ bên này sang bên kia. Chúng không cho ai đứng xem. Nạn nhân bị đánh gần chết được trực thăng chở đi cấp cứu trong đất liền mà khi trở về trại không ai dám chỉ hung phạm.

Trong hoàn cảnh ghê gớm đó người miền Nam chỉ biết im lặng chịu đựng. Ngay gia đình tôi có một thùng bìa nhỏ, trước là thùng đựng cơm hộp do trại phát, nay gia đình tôi dùng để đựng quần áo vớ vẩn (thuyền nhân còn có gì hơn ngoài mấy bộ áo quần trại tiếp tế) nhưng bọn đầu gấu tưởng gia đình tôi có vàng nên một đêm vợ tôi ngủ say chúng cũng lấy được. Nếu thức giấc mà thấy chúng ăn cắp đồ của mình thì cũng chỉ cười trừ thôi chứ la lên thì cũng chẳng có ai tiếp cứu mà không khéo chúng lại đập cho vỡ sọ.

Tình hình phân chia Nam bắc trong các trại tị nạn ở Hông Kông trầm trọng tới độ họ đối xử với nhau như hai dân tộc khác nhau. Người miền Bắc hiếp đáp người miền Nam. Người miền Nam khiếp sợ người miền Bắc. Sau khoảng 2 tháng ở trại Phao Nổi, trong đất liền có một số chỗ, trại xắp xếp đưa số người miền Nam tách rời khỏi số miền Bắc. Nhưng họ phải làm kín đáo để người miền Bắc đừng bạo động. Sáng hôm chuyển trại, họ bảo tất cả các thuyền nhân mang hết đồ đạc tập trung trên sân để nghe đọc danh sách chuyển trại vào đất liền. Nghe thấy vậy ai cũng vui mừng. Trại làm rất dân chủ. Khi được gọi tên họ hỏi thuyền nhân có muốn chuyển trại không? Ai mà không muốn sớm được vào một trại nào đó trong đất liền để có cuộc sống ổn định hơn. Đến khi gọi được nửa số người rồi thì người miền Bắc đã biết ngay đó là kế hoạch trại cho di chuyển người miền Nam đi trại khác tách biệt với người miền Bắc. Họ ngồi buồn xo trong khi những người miền Nam có tên được gọi đi thì tay xách nách mang khuôn mặt hí hửng.

Gia đình tôi được gọi lên sau cùng. Họ cũng hỏi tôi có muốn chuyển trại không. Tôi trả lời "Không!". Ngay sau đó gia đình tôi mang hành trang trở lại ngồi với nhóm miền Bắc để ở lại Phao Nổi. Nhìn thấy gia đình tôi mang đồ trở lại ngồi với toán người miền Bắc, tất cả các cặp mắt đều đổ dồn về gia đình tôi. Người miền Nam không hiểu tại sao gia đình tôi lại chọn ở lại. Người miền Bắc thì thấy vui mừng. Ít ra họ cũng thấy đỡ cô đơn vì còn có một gia đình miền Nam ở lại với họ.

Sáng hôm sau, trong chuyến tầu đầu tiên đưa nhân viên từ đất liền ra làm việc, anh cán sự xã hội Hùng trông thấy tôi còn ở trại tròn mắt ngạc nhiên. Nhưng anh không dám hỏi tôi vấn đề đó giữa lúc tôi đang đứng với đông người miền Bắc, anh bèn mời tôi vào văn phòng của anh đặt trong một thùng sắt chuyển hàng (container). Hùng là cựu Trung Uý Thuỷ Quân Lục Chiến Trần Như Hùng của VNCH, định cư tại Úc, tình nguyện sang phục vụ giúp dân tị nạn Hồng Kông. Một lần tôi hỏi Hùng tại sao lại sang tình nguyện công tác tại Hồng Kông thì Hùng làm tôi cảm động và kính trọng: "Ông hỏi thế thì coi thường tôi quá!". Vào văn phòng, anh cẩn thận đóng kín cửa rồi hỏi tôi: "Sao ông còn ở lại?". Tôi cho biết, tôi mà đi nữa thì số gần một ngàn rưởi thuyền nhân miền Bắc này ai giúp đỡ họ, họ không nói được tiếng Anh thì trại làm sao làm việc với họ. Hùng hỏi tiếp, "Thế ông không sợ họ sao?”. Tôi trả lời, “Tôi ở lại giúp họ thì làm sao họ lại hại tôi?". Ngày nay Hùng lấy bút hiệu Quốc Việt đang làm trưởng ban Việt Ngữ của đài phát thanh SBS Radio của chính phủ Autralia tại Melbourne. Có một lần Hùng chụp cho tôi một tấm hình tôi ngồi giữa đám thanh niên đầu gấu miền Bắc. Tôi cười nói đùa, đây là tấm hình đặc biệt lắm đó nghe. Mới đây, Hùng liên lạc được với tôi và nói sẽ cố tìm lại tấm hình đó gửi cho tôi nhưng cuối cùng anh tìm không ra.

Như tôi đã trình bày, vì muốn bảo vệ người miền Nam nên Hồng Kông có chính sách tách rời thuyền nhân miền Nam khỏi người miền Bắc. Nhưng tình hình đặc biệt thiếu người phiên dịch tại trại Thuyền Châu khiến trại phải hội ý với tôi. Thực sự ra nếu chỉ cần 1 người phiên dịch thì trại có thể thuê ở ngoài vào một cách dễ dàng. Nhưng qua thời gian giúp trại một cách thiện nguyện, trại biết tôi là người có thể giúp họ liên lạc với thuyền nhân miền Bắc một cách hữu hiệu nên trại muốn tôi ở lại. Nhưng họ không thể bảo vệ an ninh cho tôi nên họ không dám trực tiếp yêu cầu tôi ở lại vì lỡ có chuyện gì xảy ra cho tôi thì ai chịu trách nhiệm. Trại chỉ mật bàn hỏi tôi làm cách nào để chuyển người miền Nam ra đi một cách an toàn, không sợ người miền Bắc có cảm tưởng bị bỏ rơi mà nổi loạn.

Đồng thời họ cho tôi biết là nếu người miền Nam đi hết thì không có ai phiên dịch cho người miền Bắc, họ sẽ rất khó điều hành trại. Trước tình hình đó tôi cho họ biết tôi sẵn sàng ở lại để giúp trại điều hành. Tôi nói với trại rằng người miền Bắc cũng là đồng bào của tôi, tôi phải giúp họ nếu cần thiết. Cho nên toàn bộ kế hoạch di chuyển số người miền Nam hôm đó hoàn toàn do tôi đề nghị. Cái kế hoạch chuyển trại mau lẹ và an toàn đó tôi học được trong nhà tù cải tạo. Mỗi lần người cộng sản di chuyển tách rời một số tù cải tạo chúng tôi đi trại khác thì họ không cho biết ai đi ai ở, và sẽ đi đâu. Họ cứ kêu tất cả mang hết hành trang lên sân ngồi chờ. Rồi ai được gọi tên thì người đó ôm hành trang đứng sang khu vực khác.

Tại trại Phao Nổi (Thuyền Châu), công việc chính thức thiện nguyện của tôi là phiên dịch bệnh xá dưới quyền của một Bác Sĩ trẻ người Anh. Mỗi ngày ông ấy từ trong Hồng Kông ra khám bệnh cho thuyền nhân. Bệnh xá do tổ chức Bác Sĩ Không Biên Giới của Âu Châu phụ trách (Medecins Sans Frontières). Các thuốc men rất tốt và đầy đủ và mỗi ngày có một chuyến tầu đưa thuyền nhân có bệnh nặng vào bệnh viện tối tân của Hông Kông điều trị. Khi cấp cứu sẽ có tầu cao tốc hoặc trực thăng chở bệnh nhân tới bệnh viện trong đất liền. Thuyền nhân được chữa trị tại bệnh viện y hệt như mọi người Hồng Kông giầu có nhất. Có thể nói, trên mọi lãnh vực, Hồng Kông là thiên đường của người Việt tị nạn. Nhưng vấn đề này sẽ được đề cập tới trong một loạt bài khác. Một điều đáng xấu hổ là tất cả các trường hợp cấp cứu bằng tầu cao tốc hay trực thăng trong thời gian tôi công tác toàn là nạn nhân của những vụ đâm chém, cướp bóc của đầu gấu miền Bắc.

Người miền Bắc dường như cũng không quen tôn trọng luật pháp và kỷ luật. Ngày nào cũng có một đoàn dài người xếp hàng chờ khám bệnh xin thuốc, mà chỉ xin thuốc trụ sinh thôi, trong khi họ không có bệnh gì cả. Mặc dù Bác Sĩ đã giải thích, kêu gọi mọi người không cần xin thuốc dự trữ vì ở bệnh xá luôn luôn đủ thuốc tốt và khi cần sẽ đưa đi cấp cứu trong bệnh viện trong đất liền. Nhưng lời giải đáp, kêu gọi hàng ngày đó vẫn không hữu hiệu. Mỗi ngày hàng đoàn người vừa xếp hàng, vừa chen lấn, xô cả cửa của phòng khám khiến ngay vị Bác Sĩ cũng phải lúc thì đứng chèn cửa, ngăn không cho đoàn người tràn vào, lúc thì ngồi xuống khám bệnh. Tôi nói với Bác Sĩ là tôi không giúp gì được ông ta trong việc giữ cửa ngăn chặn sự chen lấn bạo động của thuyền nhân vì họ sẽ đánh cả tôi. Một thời gian sau, quá sức mệt mỏi bởi tình trạng vô kỷ luật của thuyền nhân miền Bắc tôi phải xin Bác Sĩ cho tôi nghỉ việc. Mấy ngày đầu ông ấy tới làm việc vẫn kêu tôi lên giúp vì không có phiên dịch. Sau đó tôi sợ quá phải viết cho ông ấy miếng giấy như van xin, “Please! Please!” đừng gọi tôi lên nữa vì tôi sợ quá không thể tiếp tục giúp ông được”. Sau đó ông ta phải thuê phiên dịch từ ngoài Hông Kông vào mỗi ngày.

Từ ngày cặp thuyền vào trại hoang dã là Đảo Bò cho tới khi rời khỏi trại tị nạn ở Bataan, Phi Luật Tân, tổng cộng 3 năm 8 tháng, trong số những người hoạt động thiện nguyện lúc đầu, sau đó được Tị Nạn Liên Hiệp Quốc trả trợ cấp 180 đô Hồng Kông, tương đương 25 đô Mỹ một tháng, có thể nói tôi là người miền Nam duy nhất có quan hệ thân thiết với người miền Bắc. Hầu như tất cả mọi người miền Nam đều tránh né người miền Bắc. Có giao thiệp thì cũng chỉ là bề mặt, xã giao, thiếu cái thân tình. Riêng duy nhất tôi thì không. Tại sao vậy? Thứ nhất, trong tận cùng suy nghĩ, tôi luôn luôn thấy rằng sự quảng giao là tấm áo giáp bảo vệ mình trong mọi tình huống. Thứ nhì, tôi là người bản chất khá cởi mở, không thành kiến. Tôi có thể và thích giao du với người của mọi miền, mọi giới khác nhau, từ dân sự tới quân đội, từ người trí thức tới những tay anh chị. Thêm nữa, tôi gốc người Hà Nội 1954 nên dễ tiếp xúc, gần gũi với người miền Bắc.

Chính nhờ lúc nào tôi cũng có mối quan hệ thân thiện với người miền Bắc, được họ thương mến, kính trọng, tin tưởng, mà trong tất cả những trại tôi ở có thể nói tôi là người duy nhất giúp tránh được các xô xát có thể đưa tới đổ máu tập thể như đã từng xảy ra rất nhiều lần ở những trại khác. Đó là một đóng góp âm thầm mà không ai biết trừ bà vợ tôi. Chưa đổ máu thì làm sao mà biết ai là người đã giúp ngăn chặn những chuyện đó từ trong trứng nước. Đóng góp đó quan trọng cho một tập thể có khi tới bẩy ngàn người. Và thành thực mà nói, đóng góp đó quan trọng cho cả chính gia đình tôi. Đôi khi nghĩ lại tôi thấy cũng vui và cũng nhớ khá nhiều những anh chị em miền Bắc có gắn bó tình cảm với tôi, kể cả bảo vệ tôi. Không kể những lần điện thoại thăm hỏi, tôi và vợ tôi đã một lần tới Canada thăm một gia đình miền Bắc và họ còn hẹn kỳ tới trước khi sang chúng tôi nên báo trước để họ liên lạc rủ các anh chị em khác tới gặp vợ chồng tôi cho vui.

Như là một quy luật, để giải quyết những mâu thuẫn xã hội, điều hữu hiệu nhất là giải quyết sau hậu trường, dựa vào sự thân thiết cá nhân trước khi mâu thuẫn bùng nổ. Ngay cả trong chính trường quốc gia hay quốc tế, cá tính của người lãnh đạo và cảm tình họ dành được đối với quần chúng cũng làm giảm căng thẳng chính trị quốc nội và quốc tế. Mầu da và cách cư xử của tổng thống Obama đã giúp giảm căng thẳng và gia tăng thân thiện giữa Hoa Kỳ và các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Phi châu và Nam Mỹ đã là một ví dụ sinh động. Một khi mâu thuẫn đã nổ ra rồi thì nắm lại tình hình rất khó và chắc chắn sẽ có nhiều tổn thất. Tại trại tị nạnBataan ở Philipines, một buổi tối một đầu gấu miền Bắc gặp tôi nói rằng nghe nói tối hôm trước anh em cựu quân nhân miền Nam có cuộc họp định tấn công anh em miền Bắc, em muốn hỏi anh xem có đúng không. Nếu đúng như vậy thì bọn em sẽ tấn công trước. Đây là một câu hỏi nhưng cũng là một đe doạ họ mượn tôi chuyển tới anh em miền Nam. Dĩ nhiên câu hỏi đó được tôi giải toả dễ dàng.

Người miền Bắc dường như có thói quen hành động không theo kỷ luật. Một lần tại trại Phao Nổi, không biết làm sao mà ban chỉ huy trại mang cơm từ trong đất liền ra chậm. Gần như tất cả hơn một ngàn người miền Bắc lên biểu tình ngay tức khắc. Không có người miền Nam. Nhưng họ không biết cách biểu tình, mà cũng chẳng ai trong số đó biết tiếng Anh để tiếp xúc thảo luận với trại. Họ chỉ còn một cách là dàn hàng ngang ném đá tấn công ban chỉ huy trại. Ban chỉ huy trại là những người dân sự có lẽ thuộc sở xã hội. Họ không hiểu tại sao mà thuyền nhân lại dữ tợn như vậy và họ sợ quá cố thủ trong khu vực ban chỉ huy có hàng rào kẽm gai. Thấy nguy cấp tôi đi lên yêu cầu đồng bào miền Bắc dừng ném đá để tôi vào thương thuyết với trại. Khi vừa thấy tôi, mấy người trong ban chỉ huy trại nói ngay: Tôi chờ ông từ nẫy tới giờ. Tôi cho ban chỉ huy trại biết là thuyền nhân họ muốn được phát cơm ngay không chậm trễ và ban chỉ huy trại đồng ý sẽ gọi máy vào đất liền yêu cầu chuyện đó. Chuyện thật đơn giản.

Hầu hết các thuyền nhân miền Bắc không được vào Mỹ.

Theo chính sách tiếp nhận những người được quy chế tị nạn, tất cả những ai có thân nhân bảo lãnh đều phải được phỏng vấn trước tiên bởi quốc gia của người thân nhân nạp đơn xin bảo lãnh. Ví dụ tôi có mẹ ở Pháp đã nạp đơn bảo lãnh thì sau khi đậu thanh lọc, tôi phải được phỏng vấn trước tiên bởi nước Pháp. Và khi nước Pháp nhận thì tôi phải đi Pháp chứ không có quyền chọn lựa nước khác.

Nguyên tắc thứ nhì là tất cả những cựu quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa sau khi đậu thanh lọc đều phải được Mỹ phỏng vấn trước tiên. Khi nào Mỹ từ chối thì mới được đi phỏng vấn với các nước khác.

Nguyên tắc kế tiếp là tất cả những thuyền nhân miền Bắc đều không được Mỹ nhận cho phỏng vấn, tức là Mỹ từ chối không nhận người miền Bắc (dĩ nhiên trừ một số ít có thân nhân ruột thịt như cha mẹ anh chị em tại Mỹ bảo lãnh).

Đó là lý do các thuyền nhân miền Bắc quy tụ đông đảo tại các nước Canada, Úc và Anh. Đặc biệt lúc đó Hồng Kông còn là thuộc địa của Anh cho nên tất cả những thuyền nhân miền Bắc phạm tội tại Hồng Kông nếu bị các quốc gia khác từ chối thì Anh quốc phải nhận hết trước khi trao trả Hồng Kông lại cho Trung Quốc. Đó là lý do Anh quốc nhận nhiều thuyền nhân miền Bắc có tiền sử tội phạm nhất.

Cách sống, tức là văn hóa, khó có thể thay đổi. Một cộng đồng dân chúng khi di cư (immigrate) mang theo họ tất cả nền văn hóa mà từ đó họ trưởng thành. Người miền Bắc trưởng thành trong nền văn hóa xã hội chủ nghĩa khi di cư sang các quốc gia đông âu, qua diện lao động hay du học, hoặc tới Hồng Kông dưới dạng thuyền nhân, lẽ dĩ nhiên mang theo họ tất cả tính chất giả trá, lừa lọc, tham lam, bạo động, và tàn bạo của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Rồi từ các “căn cứ địa” đó, họ du nhập nền “văn hóa đầu gấu” tới các quốc gia thâu nhận họ như Tây Đức, Anh, Pháp, Canada và Úc. Mới đây trong thượng tuần tháng 1/2010, một bản tin của đài BBC cho biết một chiếc xe hơi đã mang bỏ bên đường xác chết của một thanh niên khiến cảnh sát Anh phải yêu cầu ai biết danh tánh của thanh niên nạn nhân hãy cung cấp cho cảnh sát. Bản tin này làm người ta nhớ lại một tin trong bài “Nam Bắc Phân Tranh sau 1975” trong đó một nạn nhân thiệt mạng trong một cuộc giao tranh giữa hai nhóm đầu gấu miền Bắc trong trại tị nạn khiến cảnh sát Hồng Kông cũng phải yêu cầu ai biết danh tánh nạn nhân thì cung cấp cho cảnh sát. Nhưng cũng như bản tin ở Anh Quốc, không ai dám làm điều đó. Vì quy luật chung của đầu gấu là “im lặng tuyệt đối.” Ai vi phạm sẽ bị xử theo luật giang hồ.

Ngay khi còn ở trại tị nạn, với nguyên tắc nhận người tị nạn như thế, tôi đã thấy trước là ba nước nhận nhiều thuyền nhân miền Bắc nhất là Canada, Úc và Anh, nhất là Anh quốc, sẽ gặp rất nhiều khó khăn về mặt tội phạm.

Canada và Mỹ gần nhau, những thuyền nhân từng ở cùng trại với nhau nay phải chia đôi Mỹ và Canada thường hay giữ liên lạc với nhau. Khoảng một năm sau khi tới Mỹ, tạm ổn định cuộc sống, tôi tìm cách bắt liên lạc với cô học trò tiếng Anh của tôi hồi ở trong trại, khi hỏi về cuộc sống thì đã được cô nói tiếng lóng cho biết là đi làm công hái cần sa rồi. Những năm sau đó theo dõi báo chí, thấy đã có mấy vụ người Việt tại Úc bị bắt vì chuyển lậu cần sa về Việt Nam. Tin tức về người Việt tại Anh quốc cũng có mức độ tội phạm tương tự.

Tại mấy nước cựu cộng sản đông Âu và Nga, những năm trước không có nạn trồng và bán cần sa nhưng có nạn buôn lậu, đặc biệt tại Đông Đức là buôn lậu thuốc lá và băng đảng thanh toán nhau vì tranh dành thị trường. Sự thanh toán tàn bạo tới độ có vụ nạn nhân bị bắt cóc mang đi giết rồi chặt nhỏ thi hài ra thủ tiêu. Tất cả tình trạng tội phạm và phương cách phạm tội của người Việt tại Canada, Úc, Anh và các nước Đông Âu qua tin tức báo chí làm tôi nhớ lại “văn hóa đầu gấu” của người miền Bắc trong trại tị nạn Hồng Kông. Nền văn hóa đầu gấu của miền Bắc có năm biểu hiện: Kiếm tiền bất hợp pháp bằng mọi giá, cướp bóc, thanh toán nhau, tàn bạo và chế ngự cộng đồng bằng luật giang hồ (tranh giành quyền lực). Năm biểu hiện này dường như quyện chặt lấy nhau từ trong nước ra tới hải ngoại.

Sự khác biệt văn hóa Bắc Nam thể hiện rõ nét qua hiện tượng ở hải ngoại, người miền Bắc đi vào con đường kiếm ăn bất hợp pháp một cách tập thể, một điều không thấy trong cộng đồng người miền Nam. Dĩ nhiên tội phạm thì ở đâu cũng có nhưng tội phạm tập thể, rủ nhau kéo đàn kéo lũ từ trong nước ra để làm ăn phi pháp thì chỉ có cộng đồng người miền Bắc. Người miền Nam vượt biên ra hải ngoại, nói chung là đông hơn người miền Bắc nhiều, nhưng họ đi làm để nuôi con cái ăn học, và bản thân họ đa số cũng cắp sách trở lại trường học, cho dù khi đặt chân được tới nước ngoài, đa số tuổi khá cao, nhất là so với các thuyền nhân miền Bắc.

Cho nên người miền Nam ở hải ngoại đông hơn người miền Bắc nhiều lần nhưng tỉ lệ phạm pháp lại thấp hơn rất nhiều lần, không gây một tai tiếng nào tại quốc gia họ định cư. Cái đặc tính ham học và làm ăn đàng hoàng có văn hóa đó đã mang lại sự kính trọng của người bản xứ. Con cái thành phần miền Nam đã tạo được nhiều thành quả về học vấn và công tác, kể cả đạt được những chức vụ cao trong chính phủ nước người như là ông Đinh Việt cựu thứ trưởng bộ Tư Pháp Liên Bang Hoa Kỳ, Luật sư Lưu Tường Quang cựu Tổng Giám Đốc Đài Phát Thanh Quốc Gia Úc Châu (SBS), ông Vũ Khanh Thanh, nghị viên tại Anh Quốc (Councillor for the London Borough of Hackney ) và còn nhiều viên chức cao cấp khác nữa.

Tóm lại người miền Nam và con cái họ, chỉ sau thời gian ngắn tới trường học, họ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội mới và được người bản xứ kính nể. Trong khi con cái người miền Bắc ở nước ngoài không tạo được những thành quả gây ấn tượng bằng một phần nhỏ con em miền Nam. Một nhà báo nổi tiếng của miền Bắc đang tị nạn chính trị tại London, một người bạn thân vong niên với tôi trong trại tù Z30D vì tội chống đảng, một lần điện thoại nói với tôi thế này: “Em biết đấy, đám miền Bắc khác người miền Nam. Chúng có chăm lo cho con cái đi học đâu. Ở bên này (Anh Quốc) chúng toàn làm những chuyện bất hợp pháp.” Điều buồn cười là nhà văn miền Bắc này chính cống là người Hà Nội cho tới sau 1975 và là một trong vài cán bộ được đảng huấn luyện giỏi nhất miền Bắc để đảm nhiệm những công tác cần trình độ cao tương đương với giới trí thức phương Tây (vì an ninh cho ông ấy tôi xin miễn nêu tên).

Tại Canada, trình trạng tội phạm của người Việt gia tăng với tốc độ đáng sợ. Theo trang mạng Sherdog.net, bài “Vietnamese gangs stranglehold over the Canadian marijuana industry” viết rằng 95 phần trăm hoạt động trồng cần sa do cảnh sát khám phá tại Vancouver được điều hành bởi các nhóm người Việt. Bài báo viết tiếp, các nhóm trồng cần sa này là những gia đình, hợp tác với nhau để kiếm tiền… Các nhóm người Việt là những người trồng nhiều cần sa nhất trên toàn quốc…

Việc trồng cần sa có lợi nhuận khổng lồ (tremendous profit)… Người Việt trồng cần sa đã phát triển khắp các vùng Edmonton, Calgary, Saskatoon, Winnipeg, Toronto và Montreal… Một người Canada gốc Việt hoạt động cộng đồng hàng đầu (community leader) nói rằng nhiều người bàn tán về việc các gia đình gốc Việt tham gia trồng cần sa. Ông nói nguyên văn, “Nhiều người trong số họ (người Việt) cảm thấy đó là cách dễ kiếm tiền và vì thế họ đã đi vào nghề đó..” Sự tham gia của các nhóm gia đình người Việt vào việc kinh doanh bất hợp pháp này cũng gia tăng nhiều. Trong năm 1997 số nghi can gốc Việt liên quan tới hoạt động cần sa tăng từ 2% lên tới 36%. Các ghi nhận cho thấy con số người Việt trồng cần sa là đông nhất. Những người Việt từ Âu Châu và Úc Châu đang được tuyển mộ để chăm sóc cây cần sa…

Cảnh sát tại Anh quốc cho hay 75 phần trăm cơ sở trồng cần sa bị khám phá do các nhóm băng đảng người Việt điều hành…Tại Anh Quốc cảnh sát đã lục soát từ giữa năm 2005 tới 2006, 802 cơ sở trồng cần sa tại London, trong đó 2/3 cho tới ¾ các cơ sở đó là do các băng nhóm người Việt điều hành… Phương pháp trồng cần sa được dùng tại Canada hiện đang được lặp lại tại Anh quốc. Nhật báo The Vancouver Sun ra ngày Thứ Năm, mùng 10-12-2009 đăng bài “The RCMP’s gangster ‘hit list’: …” công bố ngày thứ Sáu, mùng 10-6-2005 viết rằng Nhóm băng đảng Á châu nổi tiếng nhất tại Vancouver là nhóm “Big Circle Boys-BCB). Bài báo viết tiếp, các nhóm người Việt kiểm soát 85% hoạt động trồng cần sa tại vùng Lower Mainland và hầu hết các thương vụ ma túy tại Vancouver Island, Bắc Nanaimo. Thành viên nhóm BCB can dự vào những vụ giết người, cho vay nặng lãi, buôn người, thu hụi chết, cướp bóc và xuất cảng xe hơi ăn cắp sang Á châu. Các nhóm băng đảng người Việt nổi tiếng tàn nhẫn và bạo động bất chợt. Các nhóm tội phạm Á châu khác chìm hơn (more low-key) và không muốn làm cảnh sát chú ý, nhưng sẽ dùng bạo động và giết người như giải pháp cuối cùng để bảo vệ quyền lợi bất hợp pháp của chúng.

Tại Úc Châu, cảnh sát cho hay các tay buôn cần sa người Việt đã đi Canada để học hỏi cách trồng loại cây này. Người ta tin rằng chúng sẽ dùng kiến thức học được để trồng và bán cần sa tại Việt Nam.

Tại Anh quốc tình trạng tội phạm của người Việt miền Bắc cũng được nêu đích danh. Bài Archive for March 24th ,2009, “A Viet Member of the British Empire” viết rằng, mới đây, người Việt tại Anh quốc đã nổi tiếng trên báo chí truyền thông Anh quốc do các hoạt động tội phạm trồng cần sa và buôn người.

Ngay cả người miền Bắc cũng xác nhận tình trạng tội phạm của họ. Trong bài “Người Việt tại Vacsava trồng cần sa” đăng trên mạng Đàn Chim Việt ngày mùng 2 tháng 1-2009, phần góp ý, ông Nguyễn Dũng viết rằng dân Việt Nam tại Anh Quốc, phần nhiều từ Hải Phòng cũng trồng và buôn bán cần sa ma túy. Một người khác tên là Tâm thì viết, thực lòng mà nói những người Việt Nam trồng cần sa ở Anh, Canada và một vài nước khác đã bị bắt hầu hết đều là người miền Bắc Việt Nam, cho dù tôi cũng là người miền Bắc thì tôi cũng không thể chối cãi điều đó, nhưng xin bà con thông cảm, bởi vì sống trong một chế độ mà nhà cầm quyền chà đạp lên tất cả để giữ độc quyền cai trị, thì người dân họ cũng học theo cái xấu đó để mà tồn tại. Chính vì thế mà họ coi thường luật pháp và thượng tôn đồng tiền.

Theo ông Nguyễn Dũng, một di dân gốc Bắc ở trên, người dân miền Bắc học theo cái xấu của đảng “để tồn tại.” Như vậy nguyên nhân của tình trạng tội phạm của người miền Bắc phải là vấn đề văn hóa chứ không phải vấn đề kinh tế. Vả lại nếu nguyên nhân của tội phạm là vấn đề kinh tế thì người di dân gốc miền Nam cũng phải có mức độ và hình thức tội phạm tương tự.

Làm giầu nhanh chóng bằng mọi giá, kể cả bất hợp pháp, bạo động, đâm chém là mộng ước lớn hiện nay của cộng đồng người miền Bắc hải ngoại. Nghề trồng cần sa đáp ứng mộng ước bất hợp pháp đó của người miền Bắc bởi thế họ đang đua nhau tràn sang Anh quốc, bất kể mọi nguy hiểm. Trong bài “ Những bước đổi đời gian nan” của Huỳnh Tâm đăng ngày 28/10/2009 trên trang mạng Đàn Chim Việt tác giả viết “Trước khi chia tay, chúng tôi hỏi lý do vì sao phải đến Anh mà không qua Đức, Bỉ hay Hoà Lan. Tất cả đều nói giống nhau: “Chúng tôi đến Anh là vì nơi đó tìm kiếm việc làm dễ hơn, lương cũng cao hơn và sẽ có giấy tờ cư trú hợp pháp, cũng như nơi ăn ở đã có chủ lo hết”. Qua tìm hiểu, công việc lương cao, chủ bao là trồng cỏ hay bán sản phẩm quốc cấm, còn nữ có khả năng phải làm trong ngành buôn hương bán phấn, dịch vụ mới phát triển tại Anh quốc do người Việt thầu.”

Đồng thời người miền Bắc đang mở một chiến dịch phổ biến trồng cần sa hầu như khắp Âu Châu và cả ở Hoa Kỳ. Nhưng riêng tại Hoa Kỳ lâu nay cũng có một vài âm mưu phổ biến kỹ nghệ bất hợp pháp này sang thành phố Seattle, Hoa Kỳ, kế cận thành phố Vancouver của Canada. Nhưng chiều hướng này khó thành công vì hai lý do: 1- Tại Hoa Kỳ, tội trồng cần sa bị trừng phạt nặng hơn ở Canada và Anh quốc rất nhiều. 2-Người miền Bắc ở Hoa Kỳ rất ít nên họ không tìm được đồng minh như ở các quốc gia khác.

Trồng cần sa là một nghề rất hấp dẫn và một khi đã đâm đầu vào rồi thì khó bỏ, bởi vì nó quá dễ và quá có lời. Kiếm vài triệu dễ như chơi. So với một kỹ sư tại Mỹ, trung bình lương 50 ngàn đô một năm. Một đời làm việc trung bình 30 năm mới kiếm được 1 triệu rưỡi. Trừ thuế 30 phần trăm thì còn lại hơn 1 triệu. Sau khi trừ chi phí đời sống thì cuối đời còn được bao nhiêu. Nhưng đi vào trồng cần sa thì tất cả mọi người đều trở thành triệu phú trong chớp mắt. Người quen của tôi từ Việt Nam kể chuyện rằng có người trong nước mới đi xuất cảnh lao động không biết làm gì mà gửi tiền về nhà nhiều quá. Thân nhân của họ ở Việt Nam mua căn nhà bốn, năm tỉ dễ dàng như lấy tiền trong túi. Tôi bảo rằng những người xuất cảnh lao động mà nhiều tiền như thế thì chỉ có nước trồng cần sa, buôn ma túy thôi chứ làm gì có nước nào kiếm tiền dễ như thế.

Một lần sang Canada thăm một cặp vợ chồng quen trong trại tị nạn. Thấy họ sống sung túc trong một ngôi nhà khang trang mua bằng tiền mặt và đã trả hết nợ, có nghĩa là không vay ngân hàng, tôi hết sức ngạc nhiên và cũng đoán thầm nghề nghiệp của họ. Ở chơi được nửa ngày họ mới thật tình thổ lộ hết công việc. Hiện nay thì chị vợ mở tiệm nails chủ yếu chỉ để tạo bề mặt rửa tiền. Anh chồng không phải làm gì cả. Họ thú thật đã có bạc triệu. Mấy triệu thì tôi không biết và không tiện hỏi chi tiết nhưng chính miệng anh ta nói ra là “triệu”. Anh ta cho biết bây giờ đã giải nghệ. Tôi không tin, cười hỏi, “Giải nghệ thật không?”. Anh ta thú thật rằng, giải nghệ là bản thân anh ta không còn trực tiếp trồng thôi, chứ căn nhà cơ sở của anh ta vẫn còn và anh ta kêu người chăm nom rồi chia lời. Vài ba tháng anh ta tới thu vài chục ngàn đô tiền chia lợi tức.

Một năm không phải làm gì cả mà thu lợi tức bốn chuyến như thế thì cuộc sống khoẻ quá. Lợi tức hơn một bác sĩ làm việc cật lực. Anh ta bảo tôi nếu muốn thì mua một căn nhà ở Canada rồi anh ta sẽ kêu người lo giúp cho. Lúc đó tôi không phải làm gì cả mà cứ vài tháng đi du lịch sang Canada thu vài chục ngàn đô. Anh ta trình bày tiếp, trong làm ăn mọi việc tự nó sẽ hình thành một hệ thống kín từ A tới Z. Mình không phải bận tâm. Mỗi khâu đều có dịch vụ. Từ người Realtor chuyên mua nhà tới anh constructor sửa nhà để thành cơ sở trồng cần sa, tới luật sư lo về pháp lý khẩn cấp mỗi khi bị cảnh sát khám phá, đã tự nhiên trở thành một hệ thống mắt xích hoàn hảo. Khi nghe như thế thú thực lòng tôi cũng chao đảo. Huống chi là mấy người nghèo đói ở Việt Nam.

Cái quy trình thăng tiến làm giầu nhanh chóng bằng trồng cỏ diễn tiến khởi đầu từ làm công trông nom vườn, thu hoạch, ăn lương. Khi đã rành nghề rồi thì lên một bực là không còn làm công ăn lương nữa mà là “lao tư hợp tác” (lao động và tư bản hợp tác) trông nom cơ sở sản xuất để chia lời với chủ. Và cuối cùng là khi đã đủ tiền và đã biết hết nghề cũng như biết mối tiêu thụ rồi thì mua một căn nhà tự mình làm chủ cáng đáng hết mọi việc. Sau vài năm khi đã để dành được vài triệu rồi thì hoàn toàn chấm dứt lao động mà thuê thợ làm trả lương tháng. Với sự làm giầu nhanh chóng như thế thì công nhân sẽ sớm trở thành chủ nhân, để lại một khoảng trống nhu cầu công nhân điền khuyết. Số chủ nhân mới lại cần thêm công nhân. Hai nguyên nhân đó làm tăng nhanh chóng nhu cầu công nhân trồng cần sa.

Công nhân ngày càng cần nhiều đưa tới việc buôn người từ trong nước nhập cảnh lậu sang Anh. Hệ thống mafia buôn người thành hình mà cuối cùng đầu não của mafia là các viên chức chính phủ từ toà đại sứ, tới các giới chức cầm quyền trong nước lớn nhỏ từ trung ương tới địa phương, từ ngân hàng tới sở lao động, tới công an. Một chuỗi những mắt xích mafia buôn người như vậy đã được các bài báo “Người Việt khốn khổ tại Paris” của Phương Vũ Võ Tam Anh đăng ngày 30 tháng Mười Một 2009 và bài “ Những bước đổi đời gian nan” của Huỳnh Tâm đăng ngày 28/10/2009 trên cùng trang mạng Đàn Chim Việt mô tả. Bài “Người Việt ở Ba Lan không chết bao giờ” đăng trên trang mạng talawas ngày 28/10/2009 cho biết “Tối Chủ nhật 25/10/2009, Đài Truyền hình Quốc gia Đức ARD chiếu một phóng sự về người Việt ở BaLan…

Phóng sự dẫn lời ông Robert Krzysztoń thuộc tổ chức “Tự Do Ngôn Luận”, rằng những người Việt vượt biên bất hợp pháp vào Ba Lan đều do các băng mafia Việt Nam tổ chức. Một nhân viên điều tra của cảnh sát Ba Lan cho biết, mọi người đều sợ mafia. Những doanh nhân giàu có đem rất nhiều tiền kiếm bất hợp pháp từ Việt Nam sang đây để rửa. Họ mua các công ty của Ba Lan. Họ có quan hệ chặt chẽ với chính phủ Việt Nam và các nhân viên đại sứ quán Việt Nam. Đó là hệ thống tội phạm có tổ chức, với cơ cấu như của mafia. “Người Việt không bao giờ cần ký hợp đồng. Chỉ nói miệng với nhau là đủ. Người nào không chịu trả nợ thì sẽ bị bắt cóc và tra tấn đến khi nào trả thì thôi.”

Chính hoạt động kinh tế bất hợp pháp cùng với các hành vi tội phạm khác của mafia miền Bắc đã khiến người Việt hai miền Nam Bắc tại các quốc gia lớn phương Tây như Canada, Úc, Anh, Pháp và Đức sống cách biệt nhau, không giao tiếp với nhau. Người miền Nam cũng không muốn giúp đỡ người miền Bắc ở hải ngoại là vì họ biết rằng một ngày nào đó người miền Bắc sống được, tồn tại được họ sẽ tiếp tục làm ăn phi pháp, tiếp tục trở thành thành viên băng đảng, và khi đó không những họ sẽ tiếp tục làm nhục danh dự người Việt Nam mà còn là một mối đe dọa trực tiếp cho an ninh cá nhân của những người miền Nam. Những ý kiến trên mạng Đàn Chim Việt dưới đây mô tả phần lớn quan điểm của người miền Nam hải ngoại đối với người miền Bắc. Trong phần ý kiến ở cuối bài “Người Việt khốn khổ tại Paris” của Phương Vũ Võ Tam Anh, ông “thường dân” viết rằng, “Nhìn kỹ trường hợp của những người Việt nầy: Họ muốn đổi đời trong hoàn cảnh đời sống không dễ dàng tại VN…đó là ý muốn đúng! Nhưng tại sao họ đã đi qua nhiều nước, mà mục tiêu cuối cùng lại là đến Anh, dù đời sống kinh tế, công việc cũng không dễ dàng ở Anh … ?! Câu trả lời đơn giản, họ được hứa hẹn đến Anh sẽ có công việc với lợi tức cao, ít nhất vài ngàn dollars mỗi tháng và không khó để có việc…Vậy nó là công việc gì? … đó là công việc TRỒNG CẦN SA bất hợp pháp (mà lúc nào cũng cần người). Lạm dụng luật pháp Anh phạt khá nhẹ (tương tự Canada) với tội trồng cần sa, họ và các tổ chức “tội phạm” VN chụp ngay, khai thác để làm giàu nhanh chóng, dù phạm pháp và tạo vấn nạn xã hội cho nước Anh, tai tiếng cho người Việt, trước mắt và lâu dài…”

Trong một ý kiến khác, ông “hai lua” viết, “Đám người này nếu vào được nước Anh hay nước Úc, họ cũng dám làm những chuyện phi pháp để mau giầu. Họ vừa qua khoảng vài năm là tậu nhà mới, xe xịn. Vênh váo đi ra đường nói rặc tiếng xã hội chủ nghĩa. Trong khi người ra đi từ miền Nam sống hiền lành, tôn trọng pháp luật của nước đã cưu mang cho mình định cư, thì cái đám ra đi từ miền Bắc toàn dân buôn bán xì (xì ke). Thêm vào đám con ông cháu cha qua du học, chúng coi nước Úc là nơi ăn chơi và khoe khoang. Thật ra đọc bài này tôi thấy hoàn cảnh của họ đáng thương. Nhưng họ đổi mầu rất lẹ…Sau khi có quốc tịch Úc là trở mặt ngay. Cho nên lòng thương cái đám này của tui cũng có giới hạn. Tui …sợ đám này lắm. Chúng giết người không gớm tay. Miễn có tiền là chúng làm. Xin mấy bác thông cảm đừng nói tôi kỳ thị Nam Bắc.”

Nhu cầu tồn tại của mafia là phải bành trướng vùng hoạt động, tiêu diệt tất cả những ai có nguy hại cho sự tồn tại của chúng. Tuy chưa có bằng chứng cụ thể, nhưng bằng chứng gián tiếp cũng cho thấy sức mạnh của tập thể đầu gấu miền Bắc tại Anh, Canada, Đức và mới đây là Úc.

Tại Anh quốc, đầu gấu miền Bắc mạnh tới độ báo chí Anh quốc đã phải lên tiếng (đã dẫn ở trên) và đã khiến ông Khanh, nghị viên địa phương phải ngán sợ khi công nhận có tình trạng mafia gốc Việt buôn người và trồng cần sa tại Anh Quốc, nhưng ngay sau đó ông ta đã phải đổ tội đó là “hoạt động của các tay mafia người Việt gốc Hoa”. Trong một lần khác, tôi viết một bài về mafia gốc Việt tại Đức có tựa đề “Mafia làm văn hóa”. Khi gửi cho ban biên tập Talawas ở Đức, tôi nghĩ có thể lần này ban biên tập talawas không dám đăng vì sợ bọn mafia gốc Việt miền Bắc rất mạnh tại Đức sẽ cắt cổ. Quả nhiên khác với thường lệ, bài đó của tôi không được đăng mà ban biên tập cũng không cho biết ý của họ như họ vẫn làm. Sau đó bài đó được đăng trên mạng Đàn Chim Việt ngày 22.10.08.

Một điều khá đặc biệt là sự chia rẽ hai miền Nam Bắc thể hiện trong cả đường giây buôn người xuất cảnh lao động bất hợp pháp sang Anh. Trong đường giây đó, qua các bài báo, tham gia hầu hết là người miền Bắc vĩ tuyến 17, tức là từ Quảng Bình trở ra. Trong bài “Người Việt khốn khổ tại Paris” của Phương-Vũ Võ Tam-Anh, ông viết, “Không có người nào đi từ miền Nam hay phía Nam tỉnh Quảng Bình, tức là những người bỏ nước ra đi này đã sống dưới chế độ cộng sản từ xưa đến nay, phần lớn sinh sau năm 1975..” Sự kiện đó càng làm nổi bật sự kỳ thị giữa người Việt hai miền Nam, Bắc.

Sau 3 năm 8 tháng sống với anh em giang hồ đầu gấu miền Bắc, sang tới Hoa Kỳ, tiếp nhận các tin tức về phương cách cai trị đất nước của đảng cộng sản Việt Nam, tôi thấy có rất nhiều điểm tương đồng về cơ bản giữa giới lãnh đạo đảng và các đầu gấu hàng đầu trong trại tị nạn. Các điểm tương đồng đó là:

1-Đầu gấu miền Bắc trong trại tị nạn Hồng Kông chia phe nhóm: các nhóm Hà Nội, Hải Phòng, Đồ Sơn, Quảng Ninh sống tách biệt và tranh chấp nhau, khuất phục nhau. Bản tin “Violence Pervades Hong Kong’s Refugee Camps; Vietnamese Boat People Live in Squalor, Despair-and Fear of Being Sent Home” đăng trên tờ The Washington Post ngày 20/2/1990 viết rằng, “Khi đêm xuống, cảnh sát gác trên những tháp canh bao quanh trại Sek Kong. Các nhân viên xã hội và khách ra về, chỉ còn lại 7,000 thuyền nhân và 50 cảnh sát canh gác. Ánh sáng đèn pin lập loè. Các băng đảng thù địch tập trung tại những góc riêng. Quanh trại vang lên tiếng mài dao, kiếm…và thường thì đêm nào cũng có bạo động. Trong số 56,000 thuyền nhân, đa số là người miền Bắc……” Bản tin không nói rõ “Các băng đảng thù địch tập trung tại những góc riêng” là người miền Bắc, nhưng những ai đã ở trại tị nạn Hồng Kông thì đều biết “các băng đảng thù địch” đó đều là đầu gấu người miền Bắc.

Tương tự, đảng cộng sản Việt Nam chia phe đảng:

1-Thời Lê Duẫn: Tranh dành quyền lực phe nhóm qua những vụ án chính trị giữa nhóm của ông Lê Duẫn và nhóm của ông Võ Nguyên Giáp.

2-Hiện nay là đấu đá triệt tiêu & hoà hoãn với nhau qua những vụ án tham nhũng lớn như hai vụ do Nhật và Úc mới vừa phanh phui.

3-Thủ Tướng Phạm văn Đồng, vị thủ tướng lâu năm nhất thế giới, đã phải thú nhận “không có quyền thay đổi bộ trưởng.” Như vậy nội các chính phủ chính là nơi chia chác quyền lực và quyền lợi giữa các phe nhóm đầu gấu chính trị trong đảng.

2-Đầu gấu miền Bắc trong trại tị nạn Hồng Kông đoàn kết để đàn áp người miền Nam.

Tương tự, đảng cộng sản Việt Nam đoàn kết để chống lại nguy cơ “diễn biến hoà bình”, các người bất đồng chính kiến, và các nhân vật tranh đấu cho dân chủ.

3-Đầu gấu miền Bắc trong trại tị nạn Hồng Kông đặt ra lệ thu thuế của những người bán lẻ và của những thuyền nhân làm việc cho trại như giáo viên, phiên dịch, cán sự y tế, xã hội v…v để chia chác nhau.

Tương tự, đảng viên cùng với thân nhân và phe nhóm trong đảng cộng sản Việt Nam từ trung ương tới địa phương đẻ ra các quy luật rừng rú về hành chánh, đất đai, giải tư công ty quốc doanh và kinh doanh để làm giầu phi pháp và độc quyền kinh doanh lớn. Trong bản nghiên cứu được Liên Hiệp Quốc tài trợ về nền kinh tế Việt Nam thuộc chương trình Châu Á (Asia Programs) của Phân Khoa Công Quyền (School of Government) của trường đại học Harvard Hoaky công bố tháng 1-2008, bản nghiên cứu gọi nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế phe đảng (the crony capitalism). Ở trang 4 và 5 trong 56 trang, bản nghiên cứu viết, “Những người Việt Nam có quyền lực chính trị đang chuyển tài sản công thành tài sản tư xuyên qua các mua bán đất đai mờ ám (murky land deals) và tiến trình giải tư (equytization process) giúp cho các người tay trong (insiders) kiểm soát các công ty quốc doanh và tài sản của công ty.” Đó chính là ngôn ngữ đại học để chỉ hành vi ăn cắp của công một cách tập thể. Bản nghiên cứu viết tiếp “Tại Việt Nam, nơi lợi tức bình quân đầu người chỉ khoảng 800 đô la Mỹ một năm nhưng giá đất đai tại các thành phố ngang ngửa với những quốc gia giầu nhất thế giới. Do môi trường luật lệ cực kỳ mơ hồ và yếu kém, một số nhỏ thành phần ăn trên ngồi chốc (Vietnamese elite-Việt Nam hiện không có thành phần xuất sắc –elite-nên tôi phải dịch elite ở trường hợp của Việt Nam là những kẻ ăn trên ngồi chốc) đã thu được những khoản lợi nhuận kếch xù (supper profits) do các đầu cơ (speculative investments) nhà đất.

4-Đầu gấu miền Bắc trong trại tị nạn Hồng Kông sống rất sung túc, giữa một quần chúng cực khổ.

Tương tự, toàn thể giới lãnh đạo đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam mọi cấp đua nhau làm giầu bất minh. Trong phóng sự về người Việt ở Ba Lan của Đài Truyền hình Quốc gia Đức ARD ở trên, một nhân viên điều tra của cảnh sát Ba Lan cho biết: Những doanh nhân giàu có đem rất nhiều tiền kiếm bất hợp pháp từ Việt Nam sang đây để rửa. Họ mua các công ty của Ba Lan. Họ có quan hệ chặt chẽ với chính phủ Việt Nam và các nhân viên đại sứ quán Việt Nam.

So sánh tình hình kinh tế gia đình của giới lãnh đạo đảng và nhà nước mọi cấp hiện nay với câu chuyện thời sự lúc mới “giải phóng miền Nam” người ta sẽ thấy mức độ ăn cướp của họ thực là ghê gớm. Dù là người Nam hay người Bắc, ai cũng biết một câu “đồng dao” xuất hiện sau 30/4/1975: “Người Nam nhận họ, người Bắc nhận hàng.” Câu này có ý nói “sau khi được đảng giải phóng” người miền Nam sợ hãi quá vội vàng tìm họ hàng là người miền Bắc, dù là họ hàng “bắn súng cà nông cũng không tới” để hy vọng người họ hàng từ miền Bắc vào sẽ giúp đỡ che chở tránh phải đi cải tạo và không bị đảng cướp đoạt nhà cửa và tài sản. Còn người miền Bắc với niềm tin trong sáng lúc đầu do đảng tuyên truyền là “vào Nam chiến đấu để giải phóng đồng bào trong Nam đang bị Mỹ, Ngụy kềm kẹp, đàn áp, đói khổ” thì lại quá ngỡ ngàng trước sự giầu có của nhân dân miền Nam cho nên “cố gắng đi tìm những bà con trong Nam để xin đồ mang về Bắc.”

Thời đó, hàng ngày trên quốc lộ 1, người ta thấy nườm nượp các đoàn xe tải quân sự chạy vào hướng Nam thì chở bộ đội và vũ khí, lúc trở ra Bắc thì chở theo các tài sản do các cơ quan, đơn vị miền Bắc ăn cướp và ăn cắp của các cơ quan trong Nam được đảng giao tiếp quản và một phần là tài sản của các bộ đội, công an xin của thân nhân trong Nam. Những món quà vừa xin vừa cướp được từ trong Nam mang ra Bắc thường thấy chất trên những xe tải quân sự là những chiếc xe đạp. Trên vai các bộ đội hầu hết đều lộ vẻ sung sướng khi có được cái đài. Và kế tiếp, trên cánh tay của các bộ đội giải phóng ai cũng kiếm được một cái đồng hồ. Ba món hàng đó là ba món hàng cực kỳ hiếm ở miền Bắc và chứng tỏ người chủ của chúng thuộc vào một “giai cấp” khác nhân dân, một “giai cấp sang trọng, đáng hãnh diện hơn.” Thêm nữa, một “món quà chiến lợi phẩm” quí giá nữa là các con búp bê “biết nhắm, mở mắt” và sẽ quí thêm nữa nếu chúng biết “nói”. Những con búp bê này là món quà những em bé miền Bắc hằng mơ ước như mơ ước chuyện thần tiên.
Cán bộ, bộ đội miền Bắc vào giải phóng miền Nam làm nổi tiếng ba món hàng, trước kia là rất bình thường ở miền Nam: Cái đài, cái đổng (đồng hồ) và cái đạp (xe đạp). Cán bộ nào cũng muốn có ba cái đó, và ai mà có đủ ba cái đó thì gương mặt thường lộ vẻ thoả mãn và hãnh diện.

Thế mà chỉ sau chưa tới 20 năm, tính từ lúc tôi vượt biên cuối năm 1989, thời chưa có ai giầu, tới 2009, giới lãnh đạo đảng, nhà nước mọi cấp và vợ con, thân nhân họ, những người khi vào “giải phóng” miền Nam hãnh diện với ba chữ Đ (đài, đổng, đạp) đã có những tài sản kếch xù, có nhiều tay tỉ phú, vượt xa tất cả những người Việt giỏi nhất và giầu nhất tại hải ngoại. Ví dụ:

Trong nước: -Nhà thờ họ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nguy nga đồ sộ quá mức bên cạnh một địa phương quá sức nghèo đói.

Ngoài nước: Tại Berlin, đầu gấu kết hợp với đại sứ và thủ tướng Dũng đầu tư kinh doanh đại siêu thị và nhiều mặt hàng khác, cùng với chuyển tiền bất hợp pháp về Việt Nam. (xin xem bài Mafia làm văn hoá của tác giả Nguyễn Tường Tâm, đăng ngày 22.10.08 trên trang mạng Đàn Chim Việt.)

Sự cách biệt giầu nghèo giữa giới lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam mọi cấp với dân chúng làm người ta liên tưởng tới khoảng cách biệt giữa cuộc sống “xa hoa” sung túc của giới đầu gấu miền Bắc trong trại tị nạn Hồng Kông với các thuyền nhân cực khổ.

5-Đảng cộng sản Việt Nam áp dụng biện pháp của đầu gấu để cai trị đất nước.

Một khi thấy dùng biện pháp pháp lý không thể thắng, giới cầm quyền cộng sản sẽ dùng các biện pháp của đầu gấu để trấn áp các nhà bất đồng chính kiến. Ví dụ trong tù thì cho đầu gấu đánh đập, hành hạ, hạ nhục các nhà đấu tranh cho dân chủ đang bị giam giữ. Ngoài đời thì dùng đầu gấu bao vây, tấn công, ném cứt đái, đồ dơ, vào tư gia các nhà bất đồng chính kiến, gây ra những tai nạn giao thông giả để gây thương tật cho họ, gây ra những xô xát dưới dạng cá nhân để kiếm cớ bắt nhốt họ với tội danh phi chính trị như đánh lộn. Đó là các biện pháp đã được sử dụng với luật sư Lê Thị Công Nhân trong tù, với cụ Hoàng Minh Chính, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, ở ngoài đời.

Cũng có khi giới cầm quyền cộng sản Việt Nam phối hợp cả biện pháp dùng côn đồ với pháp lý như trường hợp đối với ông bà Trần Khải Thanh Thủy mới đây. Bản tin của BBC về “…vụ xử Trần Khải Thanh Thủy” ngày thứ bảy, 6 tháng 2, năm 2010 viết rằng, “Phiên tòa hôm thứ Sáu 5/2/2010 diễn ra từ 8 giờ sáng tới chừng 6 giờ 30 chiều…Bà Thanh Thủy bị án tù ba năm rưỡi với tội danh “cố ý gây thương tích”. Nhiều người theo dõi nội vụ cả trong lẫn ngoài nước đều tin rằng hai vợ chồng bà đã bị nhà chức trách Việt Nam cho côn đồ kiếm cớ hành hung có thương tích để rồi bắt ngược lại hai ông bà và khởi tố tội hành hung người khác. Chính bởi thế quốc tế mới có quan điểm bênh vực vợ chồng bà Thanh Thủy trong vụ án áp dụng luật rừng này. Bản tin viết tiếp, “Sứ quán Mỹ nói Hoa Kỳ “rất lo ngại” vì việc kết án tù ba năm rưỡi với bà Trần Khải Thanh Thủy, một nhân vật bất đồng chính kiến.” Bản tin cũng cho hay Brad Adam, giám đốc phụ trách khu vực Châu Á của tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch viết trong một tuyên bố: “Những kẻ tấn công bà, những người gửi đám côn đồ đó ra, và những nhân viên cảnh sát không chịu can thiệp đều cần phải được đem ra trước công lý.”

Ngay mới đây bản tin của cơ quan thông tấn Đức DPA (Deutsche Presse-Agentur), ngày 10 tháng 12-2009 (Mob harasses dissident Vietnamese monks and nuns) viết, “Các tên côn đồ sách nhiễu các tăng ni bất phục tùng người Việt Nam. Một nhóm đông côn đồ ngày thứ Năm đã bao vây một ngôi chùa sang ngày thứ nhì nơi có 190 tăng ni tạm trú. Trước đó, ngày thứ Tư, các tên côn đồ này đã sách nhiễu một phái đoàn của Liên Hiệp Âu Châu định thăm viếng các tăng ni này tại chùa Phước Huệ, ở phía Nam tỉnh Lâm Đồng. Các tăng ni này là đệ tử của thiền sư Nhất Hạnh, một chi phái có trụ sở tại Pháp”. Những biện pháp đó giống hệt các biện pháp bọn đầu gấu miền Bắc đối xử với nhóm đối nghịch hay với người miền Nam ở Hồng Kông.

*

Chính sách sử dụng đầu gấu của giới lãnh đạo cộng sản đã được họ lập lại tại hải ngoại. Các đầu gấu miền Bắc tại hải ngoại đầy rẫy tiền sử tội phạm, cho nên rất là dễ dàng để giới lãnh đạo cộng sản nắm chóp, sai khiến thực hiện những công tác tấn công, phá hoại những hoạt động chống cộng của người miền Nam tị nạn cộng sản. Chính sách đó đã bắt đầu thực hiện thí điểm tại Melbourne, và Sydney, Úc. Theo tin có kèm theo hình ảnh của trang mạng “Dân Chủ – Nhân Quyền Cho Việt Nam” thì “CỜ VÀNG TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở MELBOURNE BỊ ĐỐT RỤI”. Bản tin ngày 11-12-2009 của VKTNVN, từ Melbourne, cho biết gần trưa ngày 10 tháng 12 – 2009 người ta thấy lá cờ trên tượng đài đã bị đốt, cán cờ nghiêng lệch. Bản tin viết tiếp, “Chiều cùng ngày, sau khi đi làm về ông Trần Đông, Giám đốc tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam Úc Châu đã đến tận nơi quan sát. Cán cờ bằng sắt được bắt ốc thật chặt vào đế bằng thép không rỉ dày 5 ly, cán cờ bị kéo lệch một bên. Điều đó cho thấy kẻ gian đã cố tình giựt mạnh cho rách lá cờ. Vì lá cờ bằng ny-lon khá chặt, kẻ gian không kéo rách được nên đã dùng lửa đốt cháy. Ny-long cháy đen co rúm lại và bám vào cán cờ.” Ai cũng biết ở bất cứ xã hội nào, đầu gấu thì chẳng có ý thức chính trị gì, chúng chỉ thích tiền. Cho nên hành động mang tính cách chính trị như vậy chắc chắn được sự chỉ đạo, thúc dục của toà lãnh sự cộng sản địa phương. Chủ trương gây chia rẽ và hận thù Bắc Nam của giới lãnh đạo cộng sản tại Úc không chỉ dừng lại ở chuyện phá hoại và đốt cờ Vàng mà còn tiến xa hơn nữa bằng những hành động bạo lực, giết người.

Theo bản tin “Ca sĩ từ Hoa Kỳ lưu diễn ở Sydney đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc” đăng ngày mùng 7 tháng 12-2009 trên trang mạng CaliToday, trong buổi trình diễn văn nghệ do vài nghệ sĩ từ các trung tâm Asia, Thúy Nga, và Vân Sơn trình diễn tại Sydney, Úc Châu trong chương trình dạ vũ “Chào Mừng Giáng Sinh 2009” tại nhà hàng Hoà Bình, khu vực Fairfield, vào khoảng quá nửa đêm có cuộc đọ súng giữa hai nhóm thanh niên miền Bắc (Bắc 75) và miền Nam. Hai bên đã va chạm, chửi bới lẫn nhau, sau đó mới ra xe lấy súng và mã tấu vào bắn và chém nhau. Kết quả một thanh niên 19 tuổi bị trúng đạn ngay ngực chết, hai người bị thương vì bị chém bằng mã tấu”. Chính sách sử dụng đầu gấu cùng với những biện pháp phi pháp luật, tàn bạo hiện đang được che dấu dưới những ngôn từ hoa mỹ của nghị quyết 36 khiến rất khó bị nhà chức trách sở tại phát hiện với bằng chứng cụ thể.

Khích động gây chia rẽ giữa di dân người Việt hai miền Nam Bắc tại hải ngoại như vậy chắc chắn sẽ được cộng sản rút kinh nghiệm để phát triển trong tương lai không xa.

*

Với sự gia tăng nhân số người miền Bắc tại hải ngoại do xuất khẩu lao động, du học, nghiên cứu sinh và nhập cư bất hợp pháp qua mạng lưới mafia buôn người, cùng với sự khác biệt về văn hóa, lối sống lại thêm sự ép buộc, mua chuộc và khích động của giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam, người ta khó có thể thấy có sự hoà hợp giữa hai cộng đồng người Việt miền Bắc và miền Nam ở hải ngoại. Chỗ nào có đa số người miền Bắc thì ở đó sẽ có tình trạng mafia, gia tăng tội phạm, bạo hành, trấn lột, và đe doạ.

Chính bởi thế sự chia rẽ Bắc Nam bao giờ chấm dứt thì khó tiên đoán. Nhưng một điều chắc chắn là sự hoà hợp sẽ không có được nếu hoặc hai cộng đồng không khởi đầu một công tác chung là tiêu diệt nạn tội phạm có tổ chức trồng cần sa và buôn người hoặc nguồn gốc của nạn tội phạm có tổ chức này là chế độ cộng sản trong nước không bị xụp đổ.

Theo sự ghi nhận trong những bài trước, người ta có thể thấy tình trạng chia rẽ Nam Bắc tại hải ngoại không phải do tranh chấp quyền lợi mà là do khác biệt về trình độ chính trị và văn hoá và sự khích động của giới lãnh đạo đảng và chính quyền mọi cấp từ trong nước. Như vậy con đường đi tới hoà hợp phải là xóa bỏ sự khác biệt đó. Muốn vậy, người ta nghĩ ngay tới sự xóa bỏ chế độ cộng sản tại Việt Nam. Nhưng cho tới nay, xóa bỏ chế độ cộng sản tại Việt Nam là mục tiêu dài hạn mà không ai có thể tiên đoán được khi nào thành công. Trong khi chờ đợi một giải pháp toàn bộ như vậy, người Việt hải ngoại thuộc hai cộng đồng Bắc, Nam vẫn có thể khởi đầu tiến trình hoà hợp bằng việc thực hiện một số công việc cụ thể có lợi cho chính cộng đồng của riêng mình, đó là tiêu diệt tội phạm trồng cần sa và buôn người dưới dạng xuất khẩu lao động phát xuất từ Việt Nam.

Cũng trong những bài trước, độc giả đã thấy tội phạm trồng cần sa và buôn người của người Việt miền Bắc đang là tại hoạ cho Âu châu, Canada và Úc. Người Việt thì biết rằng tệ trạng này đa số do người miền Bắc chủ trì, nhưng đối với người sắc tộc khác thì họ không thể và cũng không cần biết các thủ phạm là người Việt miền Nam hay miền Bắc. Dưới con mắt họ, tất cả thủ phạm đều là “bọn” Việt Nam. Tại Âu Châu, Canada và Úc nơi tệ nạn người miền Bắc trồng cần sa tràn lan, người Việt nói chung bị các sắc tộc khác rất coi thường, nếu không muốn dùng một từ mô tả đúng nghĩa là “khinh bỉ”. Thêm nữa tệ nạn trồng cần sa gây thiệt hại cho chính cộng đồng bởi vì với lợi tức to lớn kiếm được một cách dể dàng và nhanh chóng như thế, giới trẻ lớn lên sẽ bị ảnh hưởng xấu, không thích đi vào con đường học hành bởi vì học cho mấy cũng không thể kiếm được lợi tức như trồng cần sa. Tệ nạn này cũng gây thiệt hại cho hàng ngàn gia đình nghèo khổ ở quê nhà đang bị bọn mafia mà khởi đầu là chính quyền địa phương lừa bịp đưa sang Anh Quốc lao động khổ sai sống đời bất hợp pháp không biết ngày nào mới được giải thoát. Bởi vậy việc tiêu trừ nạn trồng cần sa và buôn người mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai cộng đồng. Chính điểm hội tụ lợi ích này có thể giúp hai cộng đồng cùng sinh tồn song hành và dần dần đi tới hoà hợp.

Hiện nay, chỉ tại những quốc gia nhỏ bé, ít dân số tại Bắc Âu, người Việt hai miền mới có giao thiệp với nhau, nhưng chỉ ở mức độ cá nhân với cá nhân chứ không ở trong một tổ chức chung. Tại những quốc gia đông dân như Anh, Pháp, Đức, Canada, Úc và Hoa Kỳ, hai cộng đồng người Việt Bắc, Nam hoàn toàn sống tách biệt nhau (chưa công khai đâm chém nhau là may rồi.) Việc cùng nhau hợp tác trong công tác tận diệt tội phạm trồng cần sa và buôn người cũng rất khó. Chỉ có một cách là mỗi cộng đồng thực hiện công tác đó theo phương cách riêng. Và rồi hy vọng theo thời gian hai cộng đồng dần dần tiến tới gần gũi nhau cùng với quá trình tiêu vong của đảng cộng sản cầm quyền trong nước. Dứt khoát không thể có hoà hợp giữa hai cộng đồng người Việt Bắc, Nam nếu cộng đồng miền Bắc tiếp tục dung dưỡng, phát huy tội phạm trồng cần sa và buôn người từ Việt Nam sang bất hợp pháp.

Để thực hiện công tác tiêu diệt bọn tội phạm trồng cần sa và buôn người, việc đầu tiên là phải phổ biến mạnh mẽ chủ trương đó. Mỗi ban đại diện cộng đồng cần phải ghi vào chương trình hành động chủ trương chống tệ nạn trồng cần sa và buôn người. Việc phổ biến chủ trương này hết sức quan trọng cho việc thành công của công tác bởi vì đó là một tuyên chiến, một bày tỏ ý chí quyết liệt của cộng đồng chống lại bọn mafia, đầu gấu. Một khi cộng đồng bày tỏ sự quyết liệt thì đầu gấu phải e-dè. Cũng tương tự trong chiến lược chống cộng mà ông Brzezinski, cựu cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter (1977-1981) chủ trương: Phải đánh gục ý chí và khả năng chống đối của đối phương (cộng sản). (1)

Việc phổ biến chủ trương tiêu diệt bọn tội phạm trồng cần sa và buôn người sẽ đưa tới 3 hậu quả hữu ích: 1-Cơ quan công lực địa phương có thêm một chỗ dựa vững chắc vào quần chúng trong khu vực. Đây là điều cơ quan công lực nào cũng mong muốn và là điều cơ bản mang lại an ninh, trật tự. Tại Hoa Kỳ, ở những khu vực an toàn, thường thấy có sự hiện diện của những tổ chức “an ninh khu xóm” (neighborhood watch) do cảnh sát giúp xây dựng. Những tổ chức này là tai mắt cho cảnh sát và cảnh sát quyết tâm bảo vệ những tổ chức này. Tại những khu vực tội phạm gia tăng, cảnh sát cũng vận động dân chúng xây dựng và tham gia các tổ chức này để làm nền tảng cho công tác tiễu trừ tội phạm. 2-Các thành viên tốt trong cộng đồng sẽ không cảm thấy đơn độc và sẵn sàng tham gia vào việc tiêu trừ tội phạm. 3-Các tên tội phạm trồng cần sa hay buôn người sẽ bị đẩy vào một trong ba tình huống thụ động: hoặc thu nhỏ hoạt động, hoặc di chuyển hoạt động ra khỏi khu vực, hoặc tập trung lực lượng đương đầu với chiến dịch chống tội phạm của nhân viên công lực. Cả ba tình huống đều đẩy bọn chúng vào con đường tiêu vong.

Việc phổ biến chủ trương chống tệ nạn trồng cần sa và buôn người cũng là thước đo khả năng phục vụ cộng đồng của thành phần đại diện, mà cũng là thước đo tầm mức mafia, đầu gấu không chế cộng đồng. Một ban đại diện không dám phổ biến chủ trương này chứng tỏ cộng đồng đang bị bị đám trùm mafia, đầu gấu không chế như trong tình trạng các trại tị nạn của người miền Bắc ở Hồng Kông. Nếu tình trạng xấu này xảy ra thì cần có một vài cá nhân có tâm huyết bí mật thu thập tin tức cung cấp cho nhân viên công lực giúp nhân viên công lực tấn công vào thành trì của tội phạm.

Song song với việc phổ biến chủ trương chống tệ nạn trồng cần sa và buôn người, ban đại diện cần có bộ phận liên lạc với chính quyền, cơ quan công lực, để đề nghị hợp tác và đề nghị những kế hoạch thiết thực. Chỉ có cơ quan công lực mới có tư cách pháp lý và phương tiện tiêu diệt tội phạm. Nhưng công việc đó chỉ thành công nếu có đủ tin tức tình báo. Lãnh vực này cần sự cộng tác của cộng đồng dân chúng liên hệ. Thiếu tin tức tình báo, thiếu sự hỗ trợ của dân chúng, nỗ lực chống tội phạm sẽ không thể thành công, cho dù đó chỉ là một việc đơn giản nhất, là xác định danh tánh một nạn nhân bị mafia sát hại, như trong những bài trước đã cho thấy.

Tuy nhiên ban đại diện cộng đồng không nên và không thể đi vào công việc cụ thể như đặt đường giây nóng thu thập các báo cáo của thành viên cộng đồng hay cung cấp thông dịch viên như ban đại diện cộng đồng tại Balan đang thực hiện. (2) Lý do là không có gì chứng tỏ người được ban đại diện cộng đồng giao phó nhiệm vụ là người tốt hay không bị mafia đe dọa không chế. Nhất là tình trạng hiện nay băng đảng gốc Việt đang chế ngự hoàn toàn kỹ nghệ trồng cần sa trên khắp Âu châu, Canada và Úc. Đây cũng là nhận định của chị Mạc Việt Hồng, trong bài “Nhức nhối vấn nạn trồng cần sa ở Ba Lan” đăng trên Đàn Chim Việt ngày 22/02/10. Mạc Việt Hồng viết, “Ngay sau khi những vụ trồng cần sa đầu tiên bị đưa ra ánh sáng, hội Đoàn Kết Hữu Nghị và Đại Sứ Quán Việt Nam ở Ba lan đã họp bàn biện pháp đối phó với tệ nạn này. Số điện thoại của ông hội trưởng và ông Lãnh sự được thông báo tới cộng đồng để thu thập các tin báo liên quan tới vấn đề trồng cần sa. Điều đó cũng tốt, nhưng có lẽ nó không phải là một biện pháp hiệu quả. Ai có thể đảm bảo an toàn cho những người báo tin, chắc chắn không phải là ông chủ tịch hội hay ngài Lãnh sự.” Nhận định của chị Mạc Việt Hồng đúng với thực tế các viên chức nhà nước Việt Nam: chính họ là thành phần mafia.

Bởi thế ban đại diện cộng đồng chỉ nên đóng vai trò tư vấn cho chính quyền với những phân tích, nhận định về hiện tượng và chiến thuật đối phó. Ví dụ hiện tượng các chủ của những căn nhà có trồng cần sa là thủ phạm chính nhưng chúng tránh né được luật pháp nhân đạo của các nước văn minh bằng cách viết những khế ước cho thuê nhà giả mạo với tên và lý lịch người thuê không thực để tới khi bị phát hiện thì nhà chức trách không bắt được người thuê (có người thuê thực sự đâu mà bắt!) mà chỉ bắt được người làm công là những di dân bất hợp pháp, nạn nhân của bọn buôn người. Trong bài “Wales Cảnh Báo Chủ Nhà Về Tội Phạm Cần Sa” của ban Việt Ngữ đài BBC ngày 19/8/2009 tác giả viết nguyên văn, “Một trong những người cho thuê nhà bị dùng trồng cần sa nói nhà ông bị hư hại và phải sửa chữa mất 3.000 bảng Anh.” Bài báo viết tiếp, “Một chủ nhà muốn ẩn danh nói: “Tôi tưởng tôi cho bốn sinh viên thuê nhà và họ đã trả tiền thuê trước ba tháng. Chỉ khi cảnh sát thông báo thì tôi mới biết chuyện.” Thực sự ra người Việt Nam nào đọc tới đây cũng đều nghĩ ngay hầu như chắc chắn hai người chủ nhà này chính là thủ phạm đầu não lọt lưới pháp luật. Như vậy ban đại diện cộng đồng địa phương cần phải giải thích rõ sự lọt lưới này để nhà chức trách tìm cách đối phó hữu hiệu hơn.

Một điều quan trọng thứ nhì là người phiên dịch không được cho gặp người cung cấp tin tức. Làm sao tin được rằng người phiên dịch không đang bị mafia áp chế hay chính người phiên dịch không là mafia? Có nhiều cách để người phiên dịch không trông thấy người cung cấp tin tức mà vẫn phiên dịch được. Cho tới nay thì ít ra hai yếu tố quan trọng này trong chiến dịch chống tội phạm trồng cần sa và buôn người trong cộng đồng Việt chưa được ban đại diện giải thích cho nhà chức trách. Bởi thế trong vụ mới nhất tại London, Anh Quốc, bọn chủ nhà đã không bị bắt mà còn được công ty bảo hiểm nhà đất bồi thường tiền sửa chữa những căn nhà do chính chúng thiết kế bên trong để trồng cần sa. Bản tin “Wales cảnh báo chủ nhà về tội phạm cần sa” ở trên viết rằng, “Cảnh sát khuyến cáo người có nhà cho thuê đề phòng cảnh giác nhà của họ bị dùng để sản xuất ma túy.” Bản tin viết tiếp, “…Người phát ngôn cảnh sát nói thêm: “Giới kinh doanh bất động sản, chủ nhà phải đề phỏng rủi ro thiệt hại lớn về tài sản từ hoạt động sản xuất này.”
Nội dung tin như thế chứng tỏ cảnh sát xứ Wales không được cộng đồng người Việt tại đây hỗ trợ, cung cấp thông tin cho biết rằng chính chủ nhà là kẻ chủ mưu trong tất cả mọi cơ sở trồng cần sa.

Chủ trương thì phải công khai nhưng kế hoạch thì cần bí mật. Chống tội phạm nhất là loại tội phạm có tổ chức (organized crime) cần phải hết sức bí mật như là chống mạng lưới khủng bố. Lực lượng tấn công bọn tội phạm phải là nhân viên công lực chứ không phải là quần chúng. Nhưng như trong mọi cuộc tấn công quân sự, tin tức tình báo là quan trọng hàng đầu. Trong binh pháp gọi đó là tình báo chiến. Tin tức tình báo chính xác quyết định sự thành công của chiến dịch. Chính trong lãnh vực này, các thành viên cộng đồng có thể đóng góp một cách hữu hiệu. Để có những tin tức tình báo tốt, nguồn tin tình báo cần được bảo vệ hoàn toàn bí mật. Bởi thế người cung cấp thông tin cần được hướng dẫn liên lạc trực tiếp với cảnh sát chứ không với một ai khác, cho dù đó là ông hội trưởng cộng đồng hay ông tổng lãnh sự. Tác giả Mạc Việt Hồng đã tỏ ra am tường tình trạng tội phạm trồng cần sa của người Việt tại Ba Lan khi bà viết, “Thiết nghĩ, việc hướng dẫn cộng đồng báo tin trực tiếp cho cơ quan cảnh sát có lẽ sẽ là giải pháp hiệu quả và an toàn hơn?”

Các thành viên tốt trong cộng đồng cần nhận thức rằng việc tham gia vào công tác tiêu trừ tội phạm trồng cần sa và buôn người là một công tác quan trọng mang lại an ninh cho chính gia đình mình. Như tôi đã trình bày, trong suốt 3 năm 8 tháng, tôi tích cực tham gia mọi sinh hoạt cộng đồng tại trại cấm Hồng Kông và Bataan ở Philippines là vì tôi ý thức được rằng, nếu mình không đóng góp vào việc duy trì an ninh trong trại thì không sớm thì muộn an ninh bản thân và gia đình sẽ bị đe dọa. Sự tích cực của cá nhân tôi và những người suy nghĩ, hành động như tôi đã chứng tỏ là một suy nghĩ và hành động đúng khi trong suốt gần bốn năm, tại những trại tị nạn tôi trải qua, không có một xung đột nào giữa hai cộng đồng thuyền nhân Bắc, Nam. Trong khi ở những trại khác thì bạo động gây thương vong tràn lan.

Tùy hoàn cảnh, mà hình thức và mức độ đóng góp của mỗi thành viên có thể khác nhau. Bản chất tin tức tình báo của quần chúng khác bản chất một tin tức tình báo chuyên nghiệp. Tin tức tình báo của quần chúng không phải luôn luôn cần đầy đủ. Mọi mảnh tin tức đều hữu ích cho nhân viên công lực. Có nghĩa là mọi cố gắng lớn nhỏ của tất cả mọi thành viên cộng đồng đều đóng góp vào việc xây dựng an ninh chung. Nỗ lực thu thập tin tức tình báo về bọn trồng cần sa và buôn người không cần sự kết hợp của nhiều người. Sự kết hợp của trên hai người nhiều khi mang lại sự nguy hiểm cho bản thân. Chỉ cần những cố gắng đơn độc, âm thầm cũng giúp tiêu diệt tận gốc rễ tội phạm. Nếu trong một cộng đồng có được hai hay ba cá nhân bí mật thu thập tin tức tội phạm một cách riêng biệt cũng đủ xóa sạch bọn tội phạm trong thời gian ngắn. Thậm chí chỉ cần có một người thực hiện cố gắng này cũng giúp truy quét bọn tội phạm. Câu chuyện một cá nhân thu thập tin tức giúp nhân viên công lực chống tệ nạn buôn người tại Kampuchia dưới đây là một ví dụ. Trong bản tin “Người đàn ông bí mật chống tệ nạn nô lệ tình dục trẻ em” (Man goes undercover to combat child sex slavery) của CNN ngày 9/2/2010, tác giả Leif Coorlim viết, “Phnom Penh, Cambodia (CNN) — Aaron Cohen hoạt động bí mật thu thập tin tức cần thiết cho nhân viên công lực thực hiện các cuộc đột kích và bắt giữ…Tôi hoạt động như là kẻ tội phạm tình dục bí mật…Tôi giả dạng làm một du khách tình dục, đi từ quán karaoke này tới quán karaoke khác, từ nhà đấm bóp này tới nhà đấm bóp khác, tìm các thiếu nữ phục vụ vị thành niên, để xem liệu có thể thu hình lúc họ gạ gẫm tôi chơi bời hay không.” Bài báo viết tiếp, “Cohen cho biết ông ta mời nhiều người bạn làm việc tại gần nơi ở của các nạn nhân tới tham gia. Họ cũng giả dạng là những người đi mua vui, cho tới khi Cohen cảm thấy thoải mái hỏi người quản lý quán bar một câu quan trọng. “Sau khi các cô gái này bắt đầu ca múa, tôi hỏi người chăn dắt gái là ngoài karaoke tôi có thể có thêm gì vui không thì bà ta trả lời ngay, “Ồ! chơi bời thì $50 đô Mỹ.” Cohen đã dùng đoạn phim thu hình cảnh gạ gẫm tối hôm đó, thu bằng máy điện thoại di động, để cung cấp cho cảnh sát những tin tức giúp họ thực hiện cuộc bố ráp nhà chứa gái giả nhà hát Karaoke đó. Ngay đêm đó hơn một chục cô gái được giải thoát…”

Công việc tiêu diệt tệ nạn trồng cần sa và buôn người của bọn mafia, đầu gấu cũng cần được cộng đồng thực hiện như trong đoạn báo vừa nêu. Đó là hoạt động vừa mang lại lợi ích cho chính gia đình mình, cho cộng đồng mình, và cho người Việt hải ngoại nói chung. Đó chính là con đường dần dần đi tới hòa hợp Nam Bắc tại hải ngoại.

Ghi chú : danh từ "Người miền Bắc" trong loạt bài này chỉ những người Bắc còn ở lại Hà Nội sau năm 1954 và những người vào miền Nam sau ngày 30/04/1975, kể cả con cháu họ, cho dù sinh trưởng tại miền Nam sau đó.