Home Tin Tức Bình Luận Tương quan giữa Đạo Công giáo và Dân tộc Việt nam

Tương quan giữa Đạo Công giáo và Dân tộc Việt nam PDF Print E-mail
Tác Giả: Nữ Vương Công Lý   
Chúa Nhật, 03 Tháng 7 Năm 2011 06:06

Tại cuộc hội ngộ Dân Chúa Hải ngoại ở California vào thượng tuần tháng 6 vừa qua, linh mục Cao Phương Kỷ đã có bài phát biểu nói lên quan điểm của mình về mối tương quan giữa Giáo hội và Dân tộc Việt Nam.
Bài tham luận cũng đã nêu rõ quan điểm đối với một số phát biểu của các đấng bậc trong hàng giáo phẩm Việt Nam thời gian qua.
Nữ Vương Công Lý xin đăng bài tham luận này để bạn đọc tham khảo.

 

Bất kỳ ai là người công dân của một Quốc Gia, cũng phải có bổn phận, nghĩa vụ lo lắng cho sự tồn vong của Quốc Gia ấy. Tục ngữ có câu:
 
“Uống Nước nhớ nguồn”, hay “Chim có Tổ, Người có Tông”.
 
Trong bối cảnh chính trị hiện nay, để tránh lạm dụng, xuyên tạc, ta cần định nghĩa một cách chính xác ý nghĩa của danh từ “DÂN TỘC” là gì? Dân tộc Việt Nam bao gồm hết mọi công dân Việt Nam với mọi quyền lợi và nghĩa vụ, nhất là quyền Tự Do, Bình đẳng…. đã được Công Pháp Quốc tế về Nhân quyền công nhận. Không một tôn giáo hay một đảng phái chính trị nào..được phép“đồng hoá” đoàn thể của mình với ý nghĩa toàn vẹn của chữ “dân tộc”, với ẩn ý xấu để hạ giá, loại trừ các đoàn thể khác hoặc độc tôn một đảng phái, hay một tôn giáo nào.
 
Mối Tương Quan liện hệ giữa một tín đồ của bất kì Đạo Giáo nào với Tổ Quốc là một Luật Tự Nhiên của con người. Ai cũng phải có lòng Hiếu Thảo, đối với Tổ tiên. Thiết tưởng Luật Tự Nhiên này rất phù hợp với Giới Răn trong Đạo Công Giáo. Dân tộc Việt Nam cũng truyền tụng những câu ca dao tục ngữ, có giá trị ngàn đời để nuôi dưỡng tinh thần ái quốc như:
 
“Quốc Gia hưng vong, thất phu hữu trách”
 
“Giặc đến nhà, đàn bà cũng phải đánh”
 
Do đó, cao trào của Giáo dân Công Giáo cầu nguyện một cách ôn hòa, bất bạo động, cho Quốc Thái Dân An, được hưởng nền Công Lý và Hoà Bình, là hành động phù hợp với Luật Luân Lý Tự Nhiên, nên không ai có quyền cấm cản.
 
Bàn luận về mối tương quan liên hệ giữa ĐẠO và ĐỜI, thì có nhiều cách thức nhận định và trình bày, diễn giảng. Chẳng hạn như xét về phương diện Luân Lý Tự Nhiên, Triết lý hay Thần học Giáo lý, hoặc Giáo luật. Hội Thánh Công Giáo cũng đã xuất bản một bộ sách về Học thuyết Xã Hội rất phong phú và hệ thống hóa về những vấn đề liên quan đến Nhân Quyền, Nhân phẩm, Tự Do Tôn Giáo, Lao Động….
 
Trong bài thảo luận này, không dẫn chứng mối tương quan liên hệ giữa Đạo và Đời, bằng các lý chứng trừu tượng, luận lý, nhưng sẽ nêu ra những bằng chứng cụ thể rút ra từ những kinh nghiệm Lịch Sử Cận Đại của Việt Nam, mà mọi người chúng ta đã và đang chứng kiến. Đây cũng là những SỰ THẬT LỊCH SỬ đáng cho chúng ta suy nghĩ và rút tỉa nghiệm nghiệm để áp dụng vào hiện tại và tương lai. Những Sự Thật Lịch Sử này minh họa một cách sống động cho luận đề chúng ta đang tìm hiểu.
 
Trước khi ghi lại những Nhật Chứng và những Sự Kiện Lịch Sử Cận Đại của giới Công giáo đối với vận mệnh nguy nan của Tổ Quốc Việt Nam (đoạn II), thiết tưởng cần làm sáng tỏ một số vấn nạn hiện nay về những bất đồng quan điểm đối với việc bảo toàn Tự Do Tôn Giáo, Nhân Quyền, đặc biệt là phát khởi phong trào cầu Nguyện cho Công Lý và Hòa Bình(đoạn I)
 
I. NHỮNG “KHẨU HIỆU” CẦN LÀM SÁNG TỎ Ý NGHĨA CHÍNH THỰC
 
Hiện tại trong Nước cũng như ngoài nước, một số câu tuyên bố hay khẩu hiệu tuyên truyền của một vài chức sắc, đã gây nên những cuộc tranh cãi sôi nổi, vì những cách giải nghĩa khác biệt, tùy theo lập trường chính trị của mỗi người. Những vấn nạn gây chia rẽ trầm trọng này đều liên quan đến mối Tương Quan giữa Đạo Công Giáo và Xã hội đầy bất công hiện nay.Chẳng hạn những câu nói mà nhiều người đã phi bác là những “Khẩu hiệu tuyên truyền”, ý nghĩa mập mờ như:
 
“Tốt Đời, Đẹp Đạo”, “Công Giáo và Dân Tộc”
 
Ta cần minh định một cách rõ ràng và trung thực ý nghĩa của các danh từ như: “Dân tộc”, “Đời: “Công dân tốt, Công giáo tốt”...
 
Từ ngữ “Dân Tộc”, “Đời”, “Công Dân” ở đây để chỉ là toàn thể mọi Công dân trong cộng đồng của Nước Việt Nam, nhất là quyền lợi và hạnh phúc chung của mọi người. Bởi vậy, không được “đồng hóa” chữ “Dân tộc”vào một giai cấp thống trị, đảng phái, hay một tôn giáo nào. Mọi công dân của Dân Tộc Việt Nam, theo Hiến Pháp và theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc… được hưởng Chủ Quyền Độc lập và mọi Quyền TỰ DO… Nhưng ngày nay, mọi người đều biết, đảng cộng sản đã độc quyền nắm giữ mọi quyền hành, tự coi đảng là “dân tộc”và loại trừ các công dân khác không cùng chính kiến. Người công dân bị tước đoạt mọi quyền Tự Do ngôn luận, quyền tư hữu… Tôn giáo bị kiểm soát. Nạn phá thai, buôn người rất thịnh hành, nhà cửa ruộng vườn bị cướp đoạt, nền giáo dục xuống cấp, nạn buôn bán bằng giả, bài thi…
 
Do đó, vì lạm dụng quyền hành, vì độc tài tham nhũng, nên Dân tộc Việt Nam đã mất đất, mỏ, mất hải đảo, mất chủ quyền vào tay Trung Cộng, kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc Việt Nam.
 
“Người Công Giáo tốt cũng là người Công Dân tốt“, phải giải thích thế nào cho đúng ý nghĩa chân chính? Giả thử: chính quyền độc tài tham nhũng hiện nay dành riêng cho các chức sắc Đạo Công giáo mọi quyền hành, mọi tiện nghi: tự do xuất ngoại, xây cất, tổ chức các lễ hội hoành tráng, trong khi công an vẫn tiếp tục đàn áp, bỏ tù những công dân đòi quyền tự do ngôn luận, dân oan đòi bồi thường nhà đất bị chiếm hữu, nhưng giới Công Giáo vẫn cứ im lặng thụ hưởng những đặc ân, đặc quyền không lên tiếng bênh vực Công Lý, đòi hỏi Nhân quyền cho toàn dân, thì thử hỏi:theo Giáo lý và học thuyết xã hội của Hội Thánh, người Công Giáo có còn là tín đồ của Đạo Bác Ái, thương Người, và có xứng đáng là một công dân tốt, cảm thông chia sẻ với mọi nỗi thăng trầm, đau khổ của Dân tộc Việt nam chăng?
 
Nghĩ xa hơn, người tín hữu và các tu sĩ may mắn được sinh sống, được hưởng Tự Do ở ngoại quốc, nhưng chỉ vì sợ làm mất lòng độc tài đảng trị để được dễ dàng về thăm quê hương, hưởng vui thú với bà con, nên đành cam tâm cam phận im hơi lặng tiếng, không dám lên tiếng phản đối những bất công mà đồng hương phải gánh chịu từ hơn 30 năm nay. Thử vấn lương tâm: quí vị đó có còn dám tự hào là người Công Giáo tốt, và tự hào là người Việt Nam , còn nhớ đến công ơn của tổ tiên, còn muốn phục hồi nền độc lập, Tự Do cho Đất Nước vẫn còn sống trong gông cùm độc tài, độc đảng chăng?
 
CHIA RẼ TRONG NỘI BỘ CÔNG GIÁO, vì BẤT ĐỒNG LẬP TRƯỜNG
 
Câu vấn nạn được đặt ra một cách găy gắt nhất từ trước tới nay, đặc biệt từ sau biến cố ĐTGM Ngô Quang Kiệt âm thầm từ chức, ra đi trong tủi nhục, vì Ngài lên tiếng phản đối những bất công, đòi quyền Tự Do:” Tư Do Tôn Giáo là Quyền, không phải là Ân Huệ “Xin-Cho”.
 
Từ trước tới nay, Nội bộ Công Giáo vẫn được đồng hương kính phục, vì là một khối duy nhất, kỉ luật chặt chẽ, con chiên vâng phục chủ chiên. Nhưng từ mấy năm nay, người tín hữu Công giáo đã ý thức được vai trò của một Giáo dân trong Hội Thánh, và bổn phận của một công dân đối với tiền đồ của Tổ Quốc đang lâm nguy, càng ngày càng rơi vào tay Trung cộng xâm chiếm đất, biển, lũng đoạn thị trường kinh tế..Do đó, các phong trào cầu nguyện cho Công Lý Hoà Bình, cho các tù nhân bị bắt một cách bất công..đã được các giáo dân chủ động tổ chức, bất chấp sự đe dọa của chính quyền.
 
Câu hỏi đặt ra: Giáo Hội Công giáo có sự “chia rẽ” không?
 
Một số người cho rằng: nội bộ Công Giáo hiện nay có những “khác biệt”, nhưng không “chia rẽ”, vì tử ngữ “chia rẽ” khác với từ “khác biệt”, như trong một nhà bố thích ăn cay, mẹ không thích. Mọi người đều biết: “bá nhân bá tánh”. Trong việc ăn uống, ăn mặc, cảm giác, người thích ăn mặn, người thích ăn nhạt, người ưa mầu đen, người ưa mầu vàng, mỗi người một sở thích.. Đây là những việc nhỏ mọn, không gây thiệt hại gì cho ai cà, nên nhường nhịn là điều tốt, vả lại, sự khác biệt, muôn mầu muôn sắc còn tăng thêm vẻ đẹp. Nhưng những vấn đề hệ trọng, như “đồng cảm, nhưng không đồng thuận”, gây nên những hậu quả tai hại, thì sự khác biệt, không còn là vấn để có thể bỏ qua được. Những vấn đề liên quan đến sự hưng vong của quốc gia, vi phạm Nhân Quyền, Tự Do Tôn Giáo, gây thiệt hại nặng nề cho nền độc lập của Dân Tộc..là những lập trường, những quan điểm, ý thực hệ, thì khônng thể bỏ qua, không thể giữ thái độ:“im lặng là vàng”, “nín thở qua sông”, “ba phải”, hay theo óc thực dụng: “miễn là được việc”. Nhưng cần phải tranh luận, lên tiếng trình bày các lí lẽ, phân biệt phải/ trái, đúng/ sai, ưu điểm/ khuyết điểm, thiệt/ hơn..để cùng nhau tìm ra một “giải pháp dung hòa”, mẫu số chung, địa điểm chung(common ground), như vẫn thường thực hành trong các nền Dân Chủ Tự Do, đa đảng, chấp nhận đối lập. Dĩ nhiên, khi trao đổi ý kiến, cần giữ thái độ ôn hòa, nhã nhặn, lịch sự, khiêm nhượng lắng nghe những lí lẽ khác. Không nên nóng nảy, dủng những lời mạt sát, kết án, thóa mạ
 
Nếu không thể tìm ra được một giải pháp chung, hữu lý để san bằng cách biệt, thì chắc hẳn sẽ phát sinh ra chia rẽ, bè phái. Chỉ có óc độc tài, chuyên chế mới không chấp nhận đối lập. Cùng nhau trao đổi ý kiến, bàn luận để tìm những lí lẽ Phải/Trái, để gạn lọc, lựa chọn, dung hòa các ý kiến khác biệt: đó là biện chứng pháp (dialectic), giúp ta tiến đến gần Chân Lý hơn.
 
Do đó, mọi người cần phải thành tâm, thiện chí, nhìn thẳng vào căn nguyên nào đã gây chia rẽ, bất đồng bất mãn trong nội bộ Công Giáo hiện nay. Nếu không chia rẽ, tại sao ĐHY BỘ Trưởng Bộ Truyền Giáo, sau Thánh Lễ tại Nhà Thờ Hà Nội, đã đặt câu hỏi công khai cho cả cộng đồng:ai vâng phục ĐTGM Hà Nội, thì xin vỗ tay, (trong khi bên ngoài Nhà Thờ, những biểu ngữ chống đối vây chung quanh)
 
Ngoài ra, không nên ngộ nhận về sự trưởng thành trong Đức Tin của các từng lớp Giáo Dân Việt Nam. Không phải họ chỉ biết đọc kinh, lần chuỗi, ngoài ra, chỉ biết vâng lời Bề trên, không thắc mắc gì hết. Trái lại, đã đau khổ quá nhiều, đã được thử thách để rèn luyện trong Đức Tin, họ thật là những tâm hồn người Công Chính, biết phân biệt điều Phải, điều Trái, Chủ Chăn thật, Chủ Chăn thuê.
 
Những nguyên cớ nào đang gây sự bất đồng nghiêm trọng trong nội bộ Công Giáo?
 
Những bất đồng quan điểm trong Công Giáo hiện nay, không thuộc phạm vi Giáo Lý Đức Tin, các Tín Điều quan trọng trong Đạo, hoặc giải thích sai lầm về Kinh Thánh, nhưng liên hệ đặc biệt với Đạo đức Luân Lý xã hội, tức là bổn phận của một công dân tín hữu đối với nền Độc lập, Tự do, Công lý xã hội, của Dân Tộc Việt Nam(như đã trình bày ở đầu đề).
 
Xin chỉ nêu ra mấy vấn nạn lớn vẫn còn đang gay gắt tranh luận từ mấy năm nay, nhưng chưa được giải quyết một cách thỏa đáng. Đã có rất nhiều ý kiến trung thực của các tín hữu, các bậc thức giả trình bày một cách khẩn thiết lên cấp lãnh đạo trong Giáo Hội. Những lời tuyên bố hay những đường hướng, hoạt động mục vụ của các vị lãnh đạo, đã gây hoang mang, thắc mắc trong Cộng đồng Dân Chúa, nhưng không được các vị hữu trách giải thích rõ ràng, hoặc nếu có lầm lỗi (nhân vô thập toàn), đã không can đảm, khiêm tốn để cải chính, hay xin lỗi.Do đó, những uất ức, uẩn khúc vẫn chưa được giải tỏa, khiến cho lòng tín nhiệm vào cấp lãnh đạo bị giảm sút.
 
Nếu ai không thích cộng sản, thì người đó đừng yêu cầu chúng tôi khích bác họ
 
Lời giảng thuyết này, tại Đại Giáo Đường Thánh PhaoLô Tông Đồ, ở Rôma, có đi ngược lại các thông điệp của các vị Giáo Hoàng, và của HĐGM Việt Nam về việc kết án, ra vạ tuyệt thông cho những tín hữu theo chủ nghĩa Cộng sản chăng? Có trái ngược với Mệnh Lệnh của Mẹ Maria ở Fatima, và việc dâng Nước Việt Nam, và Thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria chăng?
 
Người ta thắc mắc và hoài nghi, không biết Tòa Thánh có hay biết bài giảng trên kia, phản nghịch với những giáo huấn, Thông Điệp của các ĐGH, giữa một cộng đồng đông đảo các GM Việt Nam và các Giáo hữu Âu Châu?
 
Cộng đồng Dân Chúa cũng hoài nghi, tại sao Tòa Thánh làm ngơ, không giải quyết việc vi phạm Giáo Luật, một cách công khai, khi các giáo sĩ công khai ứng cử vào Quốc Hội, làm đại biểu cho một chế độ đã bị kết án, vi phạm Luật độc thân, nhưng vẫn làm cha sở?
 
Hợp tác, đối thoại thẳng thắn và chân thành” với chế độ độc tài?
 
Vấn nạn, thắc mắc đặt ra: Kinh nghiệm cho thấy: độc tài chuyên chế như chế độ cộng sản, không bao giờ có”đối thoại thẳng thắn, chân thành”. Hãy quan sát những vụ bắt bớ, đánh đập, xủ án những người dân vô tội. Gần đây, ĐHY Trần Nhật Quân đã phê phán cách giải thích của L.M Heyendricks, thuộc Bộ Truyền Giáo, Rôma, về chính sách mục vụ: “thỏa hiệp với bất cứ giá nào”,đối với Trung Cộngdo đó, đã gây nên tình trạng ly khai cho Giáo Hội Trung Quốc (coi Catholic News Agency: 15/4/2011). Người tín hữu trung thành với Hội Thánh lo ngại: đường hướng mục vụ này, nếu triệt để áp dụng tại Việt Nam, thì tương lai Hội Thánh sẽ ra sao? Vì đã có nhiều bằng chứng cho thấy, chế độ đã xâm nhập vào nội bộ của Công Giáo, như đòi quyền được chấp nhận những vị đã được Tóa Thánh đề cử cho làm GM, hay LM. Gần đây, tổ chức lớp học: giáo dục quốc phòng an ninh cho ĐCV Thánh Quý, Cần Thơ….
 
Độc tài cộng sản luôn dùng khủng bố, bạo lực, công an làm phương sách để cai trị. Chúng chỉ lùi bước khi phải đối đầu với sức mạnh chống lại. Lịch sử cho thấy: Phong trào công sản quốc tế rất mạnh sau thế chiến II, đế quốc Nga Sô thôn tính các Nước Đông Âu, tàn sát bao sinh linh, nếu chống cự lại.Nhưng ngày nay, đế quốc đỏ đã đổ vỡ tan tành, các Nước Đông Âu như Ba Lan, Tiệp khắc ..và cả Nga cũng đã chôn vùi quá khứ và theo chế độ Dân Chủ Tự Do như các cường quốc Âu-Mỹ.
 
Tại Việt Nam, vào tháng 4, năm, 1975, quân VC, từ rừng rú trở về thành Sài gòn, say sưa chiến thắng, nên chúng rất hung dữ tàn sát, cướp của, không ai dám chống cự. Nhưng sau một thời gian thực thi chính sách cộng sản, chúng đã thất bại, dân chúng nghèo đói, nên phải theo gót Trung Cộng, thay đổi chế độ “bao cấp” ra: Kinh tế thị trường, theo định hướng XHCN (?). Chúng bắt tay, xin sỏ Mỹ và các Nước Dân Chủ, Tự Do viện trợ. Ngày nay, nhờ truyền thông bằng Internet..chúng khó có thể dấu diếm bộ mặt tàn ác đối với dân chúng, vì thế giới luôn theo dõi các hàng động bạo lực, bất công.
 
Hãy thử so sánh hai vụ Công giáo phát động phong trào:Đốt nến Cầu Nguyện, vụ Tòa Khâm Sứ và vụ công an phải tha L.S Lê Quốc Quân và B.S Phạm Hồng Sơn. Nhờ lập trường cương quyết, nhờ dư luận quốc tế hỗ trợ, nên Công Lý đã chiến thắng gian tà.
 
Vụ”Cờ Vàng..cờ đỏ..” và Bảo Vệ Chính Nghĩa Quốc Gia Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ
 
Lá cờ của một Quốc Gia không phải chỉ là miếng vải với các hình ảnh, mầu sắc xanh, đỏ, vàng..dùng để trang trí cho vui mắt trong các Lễ hội. Nhưng giá trị cao quí chính là nó biểu tượng cho những giá trị tinh thần, lý tưởng đạo đức, sức mạnh thiêng liêng, nguồn gốc của một dân tộc, hay một đoàn thể. Vì thế, những hành vi như xé, đốt cờ của một Nước đều coi là tội xúc phạm đến Quốc gia Dân Tộc đó.
 
Trong hợp: “Cờ Vàng ba sọc đỏ”, lá cờ biểu tượng cho Chủ quyền của Nước Việt Nam Tự Do, Dân Chủ, Độc Lập, Tôn trọng NHÂN VỊ, Nhân Quyền. Biết bao các Chiến sĩ “Việt Nam Cộng Hòa” đã can đảm, hy sinh tính mạng để bảo vệ “Lá Cờ Vàng”, nơi mặt trận cũng như tại các đồn trú.
 
Đồng hương Việt Nam tỵ nạn cộng sản, mọi người đểu coi Lá Cờ Vàng là biểu tượng của Tự Do, Nhân Vị, Nhân Quyền.
 
Do đó, cấm cản đồng hương tỵ nạn treo Cờ Vàng là phủ nhận Lý Tưởng Tự DoPhục Quốc mà các đồng hương đã chiến đấu để bảo vệ, khi liều mạng chốn chạy khỏi chế độ chuyên chế độc tài. Ngoài ra, một bài học quan trọng rút ra từ biến cố này là: những ai không đủ can đảm để tích cực hành động chống lại chế độ độc tài, thì cũng đừng tuyên truyền, ca tụng hay giúp cho cho chế độ độc tài tồn tại, tiếp tục gây đau khổ cho Dân Tộc Việt Nam.
 
II. BẰNG CHỨNG LỊCH SỬ: CÔNG GIÁO THAM GIA VIỆC NƯỚC, VIỆC DÂN
 
Những Giáo sĩ và Nhân sĩ Công Giáo đã tích cực tham gia vào việc kiết thiết nền độc lập quốc gia, cũng như mở mang dân trí, giáo dục, khuyếch trương kinh tế, nâng cao đời sống của Dân Việt. Khởi thủy từ khi Đạo Thiện Chúa mới truyền bá Tin Mừng cho các đồng hương, các vị giáo sĩ đã thực hiện đường hướng truyền giáo , bằng phương pháp: Hội Nhập Văn Hóa, tức dùng Văn Hóa Việt Nam, những thuần phong mĩ tục, ngôn ngữ..để làm phương tiện diễn giảng, chuyên chở và cắt nghĩa Lời Giảng Phúc Âm của Chúa Cứu Thế. Tự bản thể, Chúa Cứu Thế là Thiên Tử, nhưng khi Nhập thế, Nhập Thể, đã chọn dân tộc Do Thái làm Quê Hương. Do đó, Chúa yêu quê hương miền Galilea; dùng ngôn ngữ và phong tuc tập quán, cỏ cây, gia súc..làm dụ ngôn để truyền giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa.
 
Linh Mục Đắc Lộ (1593-1660), cùng với các vị thừa sai tiên khởi đã dùng ngôn ngữ Việt, đã sáng chế ra cách viết và đọc tiếng Việt theo mẫu tự La Mã. Chữ “Quốc Ngữ”này rất dễ học dễ viết, đã là phương tiện rất hữu ích, tiện lợi giúp mở mang văn hóa, truyền bá các kiến thức khoa học..cho toàn dân.
 
Nhân sĩ công giáo Nguyễn Trường Tộ (1830-1871), viết những bản Điều Trần để triều đình canh tân, cải cách Việt Nam, theo kịp nền văn minh của Thế giới.
 
Những vị Linh Mục như L.M Trần Lục (1825-1899), đã thiết kế và kiến thiết Nhà Thờ Phát Diệm, theo kiến trúc Á Đông, và L.M. Đặng Đức Tuấn cũng là đồng chí của nhà cách mạng Phan Bội Châu, lãnh tụ Phong Trào Đông Du.
 
Vào thời gian từ 1939..trở đi, vì sinh sống, và học hành tại Hà Nội, nên tôi và các bạn cùng lứa tuổi, (nếu còn sống cũng đã trên bát tuần) đã chứng kiến những biến cố lịch sử bắt đầu diễn biến tại Thủ đô Hà Nội.Chính thời gian này, quân đội Nhật chiếm đóng Hà Nội và toàn cõi Đông Dương. Chúng tôi vẫn còn nhớ những hình ảnh những tên lính “lê dương”(legionnaires), người Pháp bị quân đội Nhật bắt vào ngày đảo chính chớp nhoáng: 6/tháng 3/ 1945. Quân Nhật trao trả nền Độc lập cho Vua Bảo Đại và Cụ Trần Trọng Kim giữ chức Thủ Tướng.
 
Ngày 3/ tháng 9/1945, quân” Việt Minh”(Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội) do Hồ Chí Minh đã dùng mưu kế để cướp chính quyền. Vào thời gian này, vì khát vọng một nền Độc Lập, và cũng vì chưa biết tung tích trá hình của “Việt Minh” là thuộc Đảng cộng sản Đông Dương, dưới sự điều khiển của Phong trào Cộng sản Quốc tế, nên đã được toàn dân và đồng bào Công Giáo ủng hộ, chỉ vì khát vọng nền Độc lập Tự Do cho Quê Hương, sau hơn 80 năm Pháp thuộc.
 
Tại Địa phận Hà Nội, LM.Phạm Bá Trực, (đã du học tại Roma, đồng môn với ĐGM Ngô Đình Thục, và là chú của ĐHY Phạm Đình Tụng), đang làm chính Xứ Khoan vỹ, huyện Duy Tiên, Tỉnh Hà Nam, đã dược phép Bề Trên tham gia Quốc Hội. Chúng tôi được biết, sau nhiều năm theo kháng chiến, nhưng luôn chống lại Chủ Nghĩa Cộng sản, nên trước ngày tiếp thu về Hà Nội vào năm 1954, L.M Phạm Bá Trực đã được bá cáo: “chết vì bệnh tim”. Còn một vài Linh Mục khác như L.M Tiên, LM.Kỷ ..không có phép của giáo quyền, nên bị các giáo dân tẩy chay, vì tham gia Việt Minh. Ngoài ra, một số nhân sĩ cũng tham gia chính quyền như: Ngô Tử Hạ (chủ nhà in),Nguyễn Mạnh Hà… Tại thành phố Nam ĐịnhPhong trào Thanh-Sinh-Công đã đào luyện được những thanh niên công giáo về “Công Giáo Tiến Hành”( Action Catholique), như Phạm Đình Tân, Phạm Đình Khiêm, LM Phạm Hân Quynh..để hoạt động trong giới thanh thiếu niên Công giáo.
 
Theo sách “Chứng Từ của Một Giám Mục“, tác giả là ĐGM Lê Đắc Trọng, làm chứng cho thấy, từ sau năm 1954, gần một triệu đồng bào miền Bắc trên vĩ tuyến 17, trong số đó cả trăm ngàn giáo dân công giáo đã hy sinh tính mạng, đề lại mồ mả tổ tiên, chạy xuống miền Nam để lánh nạn cộng sản.
 
Các vị Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và giáo dân đều đồng một ý chí một lập trường phản kháng chế độ độc tài, vô thần và tẩy chay, bất hợp tác với các thứ hội do đàng cộng sản điều động như: Công Giáo Yêu Nước… , dầu bị bắt bỏ tù, bị kì thị, cấm cách không được di chuyển tự do giảng Đạo, hay thi hành Mục vụ.Do đó, Hội Thánh Công Giáo miền Bắc, vẫn kiên trì giử vững Đúc Tin tinh tuyền, trung thành với Hội Thánh hoàn vũ, khiến cho toàn thế giới ngưỡng mộ.
 
ĐHY Trịnh Như Khuê bị quản thúc tại Tóa Giám Mục. ĐHY Phạm Đình Tụng, lúc làm Giám Đốc Chủng Viện Thánh Gioan, đã tự động đóng cửa giải tán chủng sinh khi chính quyền ra lệnh bắt các chủng sinh học tập về chính trị và lý thuyết Mácxít. ĐHY Trịnh Văn Căn, cương quyết đệ trình Tòa Thánh Phong Thánh cho 118 Thánh Tử Đạo Việt Nam, dầu chính quyền tìm mọi cách cản trở, phản đối, đe dọa. L.M. Nguyễn Văn Vinh, quê Làng Ngọc Lũ, Huyện Duy Tiên, Tỉnh Hà nam( Ngọc Lũ là địa danh danh tiếng, vì tại đây đã khai quật đuợc “Trống Đồng Ngọc Lũ”, di tích về Nguồn Gốc Văn Minh Việt nam). Tất cả các Vị GM, LM, Giáo Dân miền Bắc như các Địa Phận Vinh, Thanh Hóa, Thái Bình, Bùi Chu, Phát Diệm, Hải Phòng, Hưng hóa, Bắc Ninh đều nhất trí đồng tâm trung thành với Đức Tin và với Tòa Thánh RôMa. Khộng lập “giáo hội tự trị” như bên Trung Cộng.
 
Tại Phát Diệm, ĐGM Lê Hữu Từ, vì muốn cùng toàn dân tham gia vào công việc xây dựng nền độc lập, nên nhận lời làm”cố vấn” cho chính phủ (cũng như “cố vấn” Vĩnh Thụy, tức Vua Bảo Đại). Nhưng như mọi người đều hay biết: Ngài đã thăng thắn nói với Hồ Chí Minh: nếu ông làngười quốc gia yêu Nước thì tôi ủng hộ ông, nhưng nếu ông là cộng sản, thì tôi chống ông. Thật thế, chẳng bao lâu, khi biết “Việt Minh”chính là tổ chức cộng sản trá hình để lợi dụng lòng ái quốc của toàn dân để mưu toan áp đặt Viêt nam theo Nga sô, Trung Cộng, Khu vực Phát Diệm đã trở thành khu “Tự Trị Phát Diệm” cùng với khu “Tự Trị Bùi Chu”, do ĐGM Phạm Ngọc Chi cai quản, tổ chức dân quân tự vệ, kháng chiến chống quân”Việt Minh cộng sản”
 
Tại miền Nam Việt Nam, sau Hiệp Định Geneve 1954, tạm phân chia Nước ra hai miền với hai chính thể khác nhau. Một bên hoàn toàn lệ thuộc vào tập đoàn cộng sản thế giới do Ngasô và trung cộng; một bên là chính thể Cộng Hoà, Dân Chủ Tự Do.
 
Chính thể Cộng hòa Tự Do, Dân Chủ do một vị giáo dân lãnh đạo, làm Thủ tướng, và được bầu làm Tổng Thống. Chí sĩ Ngô Đình Diệm, một nhà ái quốc liêm chính,đã dẹp các “giáo phái”, thống nhất quân đội, tổ chức tuyển cử thành lập nền Cộng Hòa với tam quyền phân minh: Lập pháp, Tư Pháp và Hành Pháp. Dưới chính thể Đệ Nhất Cộng Hòa, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã mời ĐGM Phạm Ngọc Chi làm “Tổng Uỷ Di Cư”, cùng với sự cộng tác của các Linh Mục di cư từ Miền Bắc, đã định cư cho gần một triệu đồng bào được an cư lạc nghiệp, ổn định đời sống, nền kinh tế trở nên trù phú.
 
Các cộng đoàn Công giáo từ miền đồng bằng sông Cửu Long lên tới miền Cao nguyên, miền Hố nai, Gia kiệm, Xuân Lộc, Hàm tân..các nhà thờ Công giáo được xây cất khắp nơi.
 
Để huấn luyện và củng cố Đức Tin cho các tín đồ thêm ý thức về bổn phận đối với việc mở mang Nước Chúa và bổn phận công dân biết tích cực tham gia việc quốc gia xã hội, nên đã thành lập một Hội Đoàn gọi là“Công Giáo Tiến Hành (Action Catholique) do ĐGM Lê Hữu Từ là Tổng Tuyên Uý, và B.S Nguyễn Văn Ái làm chủ tịch; kế tiếp là L.S Nguyễn Văn Huyền làm chủ tịch.
 
Ngoài ra, về Giáo dục, tại miền Nam trong những năm từ 1954- 1975, số học sinh Trung Học của các Trường Công Giáo đông hơn con số học sinh các Trường công. Trong số các Trường Đại Học, Trường Đại Học do Công giáo sáng lập, quản trị chiếm một nửa. Công cuộc Từ thiện,viện nuôi trẻ Mồ côi, nhà Dưỡng lão..phần lớn do cá Nữ tu Công giáo điều hành. Nền nghệ thuật, Văn chương, báo chí được Tự do phát triển. Toàn dân đều theo Lý tưởng Tôn Trọng Nhân Quyền, NHÂN VỊ, Luật pháp dựa trên nền tảng Công bằng , Công Lý, Bình đẳng cho mọi người công dân, không kì thị về sắc tộc, tôn giáo.
 
Ông Ngô Đình Nhu, bào đệ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, làm Cố Vấn, đã viết tài liệu học tập cho các cán bộ chính phủ: tập “CHÍNH ĐỀ”, một tài liệu lịch sử đã tiên đoán cho việc hiện tại và tương lai của vận mênh Dân Tộc Việt Nam. Ngày nay, mọi người đang nhận ra những lời tiên đoán đó là đúng SỰ THẬT LỊCH SỬ: Công sản Việt nam(Việt cộng) do Hồ Chí Minh lãnh đạo, đã và đang dần dần dâng Đất Nước của Tổ tiên cho Trung Cộng xâm chiếm: hải đảo, đất cao nguyên(bauxít), lũng đọan kinh tế..và xâm nhập vào nội bộ các ĐẠO GIÁO nữa. Mô hình“Công Giáo Tự Trị“tại Trung Cộng, đã manh nha, dần dần áp đặt cho Việt Nam, dưới chiêu bài” thỏa hiệp, đối thoại với bất cứ giá nào”, với các ” uỷ ban đoàn kết..” “công giáo yêu nước”..
 
Sau năm 1975, khi cộng quân chiếm đóng miền Nam, cán bộ rất hung hãn, chém giết bỏ tù bất cứ ai chống đối, tàn sát tống giam các cựu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, vào trại cải tao, trục xuất Đức Khâm Sứ Tòa Thánh, tịch thu tài sản, giải tán các Tu Viện Nam,Nữ, các Chủng Viện..vào thời gian khủng bố đó, người ta nhận thấy: các vị lãnh đạo Công giáo chịu nhẫn nhục, mềm dẻo, để tránh xa những hành động hung hãn của cán bộ. Nhưng sau một thời gian chung sống, “đối thoại chân thành, thẳng thắn”, phía độc tài đảng trị không nhượng bộ lẽ phải, không giữ lời hứa, không tôn trọng Nhân Quyền, và Tự do tôn giáo, nên một số vị lãnh đạo như ĐTGM, Nguyễn Kim Điền và Linh Mục Nguyễn Văn Lý, và gần đây ĐTGM Ngô Quang Kiệt., ĐGM Cao Đình Thuyên, ĐGM Hoàng Đức Oanh… đã can đảm đứng lên phản đối và tố cáo với thế giới những luật lệ vi phạm Nhân Quyền và Tự Do tôn giáo của chính quyền độc tài độc đảng.
 
TẠM KẾT.
 
Số phận của một người, hay Vận Mệnh của của một Dân Tộc luôn thay đổi dưới quyền Năng vô biên của Đấng Tối Cao, theo luật Tuần Hoàn.như: “Hết cơn mưa, trời lại sáng”, “bĩ cực thái lai”, “không ai giầu ba họ, không ai khó ba đời”...
 
Bởi vậy, Phong trào quốc tế cộng sản do Nga Sô lãnh đạo, một thời đã tung hoành dữ dội, tàn sát tất cả mọi chướng ngại vật, và những ai không theo chúng, như quân Hung nô thời xưa. Nhưng ai ngờ, nhờ lời cảnh cáo thế giới của Mênh Lệnh tại FATIMA, ngày nay, chúng đã sụp đổ tan tành, và những cựu lãnh tụ, sau khi được giác ngộ, đã thẳng thắn tuyên bố: Lý thuyết cộng sản, không thể sửa chữa, hay sửa sai được, chỉ nên ném vào sọt rắc..hay tôi đã uổng phí nửa đời người vì đã nghe theo lý thuyết cộng sản.
 
Tại phần đất đau thương Việt Nam này, vào những năm phong trào quốc tế cộng sản còn mạnh, sau khi ở rùng rú trở về thành phố Sài gòn hoa lệ, vừa say sưa chiến thắng, vừa bị choáng váng về sự trù phú của miền Nam Tự Do, các cán bộ cộng sản đã như điên dại cướp của, và tàn sát bất cứ ai dám chống cản chúng. Do đó, nếu dân chúng và các lãnh đạo các đoàn thể tôn giáo hay đoàn thể quốc gia, phải “tùy cơ ứng biến”, xa tránh, im hơi lặng tiếng, không dám lên tiếng phản đối kẻ đang giận dữ, như điên dại, thì còn có thể hiểu được và thông cảm cho hoàn cảnh khó khăn.
 
Nhưng ngày nay, tình hình chính trị quốc tế đã thay đổi. Phong trào cộng sản quốc tế đã sụp đổ hoàn toàn, không mất một viên đạn, như lời tiên tri của Mệnh Lệnh Fatima. Trung cộng và Việt cộng đã phải trá hình lột xác chủ nghĩa để mặc cho bộ áo mới: đổi mới theo “Kinh tế thị trường”, để tồn tại. Nhưng chúng vẫn ngoan cố, lừa bịp nhân dân với cái đuôi, ” theo định hướng XHCN”. Ngày nay, nhờ các “mạng Lưới” thông tin nhanh chóng.. chúng bắt buộc phải mở cửa cho thế giới Tự Do, nhìn thấy bộ mặt thật:tham nhũng, bạo động, công an đánh đập dân lành, cướp nhà cướp đất, buôn người.. Đặc biệt, chúng đã phải thân thiết với “kẻ thù xưa”, “Mỹ nguỵ”, để kiếm “đôla”.
 
.Ngày nay, cộng sản phải nhờ Mỹ và thế giới Tự Do để tồn tại và kéo dài những ngày bóc lột dân chúng trước khi tàn lụi. Do đó, đường hướng lãnh đạo nhân nhượng, o bế , “đối thoại với bất cứ giá nào” với độc tài, đảng trị, công an trị, là một điều không tưởng, làm cớ cho độc tài kéo dài thêm chính sách đàn áp, bó lột dân chúng.
 
Biến cố gần đây: việc nhà cầm quyền phải trả tự do cho L.S Lê Quốc Quân, và B.S Phạm Hồng Sơn cho thấy: chỉ có sức mạnh đoàn kết của giới lãnh đạo và giáo dân, mới khiến độc tài lùi bước, sợ hãi vì sức mạnh của Thế giới TỰ DO. Lời cảnh cáo của ĐHY Trần Nhật Quân đối với lập trường “Đối thoại với bất cứ giá nào” đối với Trung cộng, cũng là lời cảnh cáo đối với các vị lãnh đạo công giáo tại Việt nam.
 
Nhưng giữa Việt Nam và Trung Hoa có một sự khác biệt: nếu chẳng may, Giáo Hội Trung Hoa trở thành tự trị, quốc doanh, tách rời khỏi Hội Thánh hoàn vũ, thì người Công giáo Trung hoa vẫn còn có Tổ Quốc độc lập. Nhưng nếu áp đặt vào trường hợp Việt Nam, thì số phận người Công Giáo Việt Nam, sẽ bi thảm hơn nhiều, vì bị mất cả hai: vừa mất Nước vào tay Hán thuộc, vừa mất Đạo. Câu nói của người xưa, khá chính xác: “Họa vô đơn chí“(tai họa không đến chỉ có một, nhưng hai, ba..nhiều vô kể)
 
Linh mục Cao Phương Kỷ