Thời Đại Của Tôi – Thời Đại của Dân Tộc |
Tác Giả: Lê Quế Lâm |
Thứ Sáu, 02 Tháng 7 Năm 2010 09:48 |
Tác giả không những chỉ nhìn chiều dài và chiều rộng của lịch sử, mà còn tìm hiểu cả chiều sâu qua nhiều khía cạnh khác nữa như tâm linh, văn hóa, kinh tế, tình cảm tâm tư…của dân tộc. Đầu tháng Chạp năm rồi, tôi hân hạnh được Giáo sư Vũ Quốc Thúc ở Paris gởi tặng quyển Thời Đại Của Tôi - Cuốn I: Nhìn Lại 100 Năm Lịch Sử. Trong lời tựa, Giáo sư không nhận “cuốn sách là một thiên khảo luận về lịch sử Việt Nam cận đại vì tác giả không có tham vọng làm công việc của nhà viết sử. Đó chỉ là một bản tóm lược những điều mà tác giả -với tư cách chứng nhân- đã thâu hoạch trong cố gắng tìm hiểu thời đại của mình”. Dù không viết sử, nhưng qua tâm tình của tác giả với phóng viên Ánh Nguyệt, Đài RFI (Google: thoidaicuatoi RFI- “Thời đại của tôi”) cho thấy cách nhìn và nghiên cứu lịch sử của G/sư Thúc rất khoa học, sâu sắc. Và sự tìm hiểu của ông gần như toàn diện, bao gồm cả ba chiều kích: dài, rộng và sâu của thời đại 100 năm qua. Theo tác giả, một biến cố lịch sử, nếu nhìn đơn lẽ, không đặt nó vào bối cảnh chung, thì chỉ là cái nhìn hời hợt, phiếm diện. Biến cố là kết quả từ những nguyên nhân sâu xa từ mấy chục năm trước. Nó lại trở thành cái nhân đưa đến biến cố khác xảy ra ở mấy thập niên sau. Đó là tính tất yếu của lịch sử theo qui luật nhân quả. Vì thế muốn tìm hiểu thời đại của chúng ta, phải nhìn nó trong chiều dài của lịch sử một thế kỷ qua. Ngoài ra, mọi diễn biến của lịch sử còn bắt nguồn từ những dữ kiện xảy ra bên ngoài. Phải đề cập đến các yếu tố địa lý - chính trị, tức phải tìm hiểu chiều rộng của lịch sử. Việt Nam vốn chịu ảnh hưởng lâu đời của Trung Hoa, sau đó trở thành thuộc địa và đất bảo hộ của Pháp. Tháng Ba 1945 Nhựt đảo chánh Pháp và trao trả độc lập cho VN. Sau khi Thế chiến II chấm dứt, trong khi đồng bào ta nô nức đấu tranh giành độc lập, thế giới lại xảy ra cuộc xung đột ý thức hệ giữa Thế giới Tự do do Hoa Kỳ lãnh đạo với Cộng sản Quốc tế đứng đầu là Liên Xô. Trong cuộc xung đột này, VN trở thành địa bàn tranh chấp chủ yếu, còn các lân bang được sự bảo vệ của khối Liên phòng Đông Nam Á (SEATO) Khi chiến tranh VN sắp kết thúc, các nước trong vùng không cần đến sự bảo vệ của khối quân sự SEATO nữa. Họ thành lập khối ASEAN, biến ĐNÁ thành khu vực hòa bình, tự do, trung lập và phần vinh. Tác giả không những chỉ nhìn chiều dài và chiều rộng của lịch sử, mà còn tìm hiểu cả chiều sâu qua nhiều khía cạnh khác nữa như tâm linh, văn hóa, kinh tế, tình cảm tâm tư…của dân tộc. Với cái nhìn gần như toàn diện, tác giả tin tưởng “mới có thể đến gần với sự thật của lịch sử”. Trong khi đó, giới cầm quyền do tác động của các thế lực bên ngoài, đã cố tình xén bớt, cắt ngắn những sự thật không có lợi cho họ. Hậu quả là lịch sử bị xuyên tạc, bóp méo. Đáng buồn hơn, vì bị mê hoặc bởi các cường lực, những người lãnh đạo đất nước chỉ có một suy nghĩ, giữ mãi một định kiến, mà không chịu uyển chuyển, thích nghi với hoàn cảnh đã đổi thay. Chỉ có người điên loạn, tâm trí không bình thường, nhẹ là cố chấp, nặng hơn gọi là cuồng tín mới hành xử như vậy. Đó là thảm họa lớn của dân tộc. Được biết, Giáo sư Vũ Quốc Thúc dự định cho xuất bản sách Thời Đại Của Tôi vào năm 2010 -nhân ngày lễ thượng thọ 90 tuổi (1920-2010) Nhưng tháng Chín 2009, chánh quyền CSVN tổ chức Đại hội Việt kiều hải ngoại ở Hà Nội, họ rầm rộ tuyên truyền và vận động kiều bào về kiến thiết đất nước. Vì thế một số thân hữu và môn sinh của G/sư Thúc trong nhóm Bạn Văn và Hội Ái hữu Đại học Đà Lạt ở Paris đã cho phát hành tạm ở Pháp một số sách Thời Đại Của Tôi cuốn 1: Nhìn lại 100 năm lịch sử. Đây là cơ hội, giúp đồng bào hiểu được trong hoàn cảnh lịch sử nào mà nhiều triệu người Việt phải xa rời tổ quốc. Dù sống ở quốc ngoại, họ vẫn luôn nặng lòng với quê hương, tiếp tục đấu tranh cho mục tiêu lớn mà dân tộc đang khát khao là dân chủ tự do. Một khi đất nước có dân chủ tự do thực sự, đồng bào ở hải ngoại sẽ mang tiền của và trí tuệ về kiến tạo lại quê hương. Thời đại của tác giả là “Thế kỷ XX -một thế kỷ trong đó lịch sử dân tộc được đánh dấu bởi nhiều biến cố cực kỳ quan trọng. Sáu niên hiệu nổi bật trong ký ức của đại đa số dân Việt: ở mỗi thời điểm đã có một biến cố lịch sử quan trọng đối với toàn thế giới -1918, 1939, 1945, 1989- hoặc riêng với nước ta -1954, 1975. Năm 1989, một biến cố không ai đoán trước đã đột ngột xẩy ra. Bức tường Bá Linh bị phá bỏ. Các chế độ Cộng sản Đông và Trung Âu theo nhau sụp đổ. Tiếp đó là sự tan rã của chính Liên Bang Xô Viết. Hoa Kỳ đương nhiên trở thành đệ nhất siêu cường, giữ địa vị bá chủ thực tế của thế giới. Khỏi cần nói là tình trạng mới nầy đã và đang tác động trên tâm trạng của nhân dân nước ta. Tương lai đất nước tùy thuộc rất nhiều ở cách suy tư cũng như xử sự của mọi người Việt, đặc biệt của những kẻ đang cầm quyền”. Cảm kích một bậc trưởng thượng ở tuổi thượng thọ mà còn nặng tình với đất nước, tôi ngỏ ý giới thiệu tác phẩm của giáo sư trong bài viết “Đầu năm mới, ôn lại những trang sử cũ để Định Hướng Tương Lai” (về mối bang giao Việt Trung 1950-2010) trong Giai phẩm Xuân Canh Dần 2010 Báo Việt Luận ở Úc Châu, Nhựt báo Việt Herald ở California (HK) và Thông Luận ở Paris. G/s cho biết sách chưa có bán, chỉ in tạm mấy chục cuốn để kịp phổ biến trước ngày Đại hội Việt kiều ở Hà Nội. Sách do công ty Người Việt ở California phụ trách ấn loát và phát hành. Sách chưa chính thức phát hành ở HK mà có lời bình phẩm trước, giáo sư sợ nhà phát hành Người Việt sẽ trách là “thiếu fair play”. Nay sách đã được phát hành, bìa cứng in ấn rất đẹp mắt và trang nhã, tôi xin giới thiệu đến quý đồng hương một tác phẩm lịch sử dày công phu và đầy giá trị của Giáo sư Vũ Quốc Thúc. Trước thảm trạng của đất nước, những ai còn ưu tư đến tiền đồ dân tộc phải tìm đọc Thời Đại Của Tôi, thời đại của chính mình, thời đại của dân tộc và đất nước mình. Qua 6 niên hiệu nổi bật của thế kỷ qua từ 1918 đến 1989, tôi nhận thấy toàn là thời cơ thuận lợi nhưng tại sao VN lại gánh chịu hậu quả bi đát? Năm 1918 Thế chiến II chấm dứt với hai sự kiện lớn: Hội Quốc Liên và Quyền tự quyết dân tộc do TT Hoa Kỳ Wilson đề ra. Nhưng từ ngày ấy đến nay đồng bào ta vẫn chưa thực sự được hưởng đặc quyền này. * Năm 1939-1945: Thế chiến II, phe Đồng minh thắng trận, LHQ ra đời, khởi đầu kỷ nguyên các cường quốc thực dân trao trả độc lập cho các thuộc địa. Ba nước Ấn, Miến , Nam Dương đều thương lượng và tranh thủ được độc lập, còn VN lại muốn giành độc lập bằng chiến tranh. Hậu quả đất nước bị chia hai. * Từ sau 1954 các cường quốc chủ trương hòa hoãn để chấn chỉnh lại nội bộ để phát triển đất nước họ, CSVN lại gây chiến để xóa ảnh hưởng Mỹ ở MN (1960-1975). Các cường quốc HK, LX và TC lại gặp nhau, tìm cách chấm dứt chiến tranh VN và mở ra giai đoạn hòa bình hợp tác các bên đều có lợi. * Năm 1975 chiến tranh VN chấm dứt dựa trên quyền tự quyết dân tộc (đòi hỏi của Mỹ) và VN đứng ngoài cuộc xung đột giữa HK và LX (đòi hỏi của TC). Nhưng CSVN lại chủ trương đứng hẳn về phía LX, chống cả TC lẫn HK, vì thế đã tạo ra cuộc chiến giữa ba nước CS anh em (TC, CSVN và Khmer Đỏ) kéo dài 10 năm. * Năm 1989: Chiến tranh giữa hai nước CS ở Đông Dương chấm dứt, cũng là lúc bức tường Bá Linh sụp đổ, sau đó là khối CS Đông Âu và cuối cùng là LX. Chiến tranh lạnh chấm dứt. Trong thời hậu Cộng sản (1991-2009) CSVN quay về thần phục Bắc Kinh, bị TC chèn ép nặng nề cũng giống như thời bị Đặng Tiểu Bình dạy cho bài học vì vong ân bội nghĩa (1979-1989). Tóm lại, biến cố quan trọng nhất của thế kỷ XX là sự ra đời, phát triển, suy tàn và sụp đổ của chủ nghĩa Quốc tế CS ở LX. Biến cố trên đã tác động nặng nề đến dân tộc. Song đối với những người CS, họ gọi đó là Thời đại Hồ Chí Minh. Họ tự hào từ năm 1920 ông HCM đã tìm thấy chân lý “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Năm 1917, Lenin lãnh đạo đảng CS Nga làm cuộc Cách mạng tháng Mười lập ra nhà nước vô sản đầu tiên. Từ đó Nga tự nhận là chỗ dựa, làm nhiệm vụ giải phóng tất cả các dân tộc bị chế độ tư bản áp bức, để xây dựng chế độ CS trên toàn thế giới. Mục tiêu này đi ngược với chủ trương của Cách mạng HK năm 1776. Họ xác định nguyên tắc bất di bất dịch của quyền tư hữu tài sản thiêng liêng và phát huy những quyền tự do căn bản của con người. Chế độ này phải trở thành một kiểu mẫu cho tất cả các nước và các dân tộc. Vì cách mạng vô sản, năm 1950 ông HCM đã mang ảnh hưởng của TC vào VN, lấy tư tưởng của Mao Trạch Đông làm đường hướng chỉ đạo thực hiện cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu và tiêu diệt giới trí thức đối kháng trong vụ án Nhân Văn Giai phẩm. Pháp đã đẩy lùi ảnh hưởng Trung Hoa ra khỏi VN qua Hiệp ước Thiên Tân năm 1885 và Hiệp ước Pháp Hoa tháng Hai 1946. Nhưng ông HCM chủ trương chống Pháp để mời kẻ thù truyền kiếp, luôn có tham vọng xâm chiếm nước ta, trở lại VN. Cũng vì con đường vô sản, khi kháng chiến chống Mỹ thành công, Tổng Bí thư Lê Duẩn đưa cả nước vào quỹ đạo Xã hội chủ nghĩa thế giới, ký hiệp ước hữu nghị hợp tác” với LX. Đây là điều bất hạnh cho dân tộc. Đất nước đã thống nhất, giới lãnh đạo lại chỉ lo tìm đường lệ thuộc ngoại bang! Vì “hợp tác toàn diện” với LX, nên lãnh tụ TC Đặng Tiểu Bình lên án CSVN là ‘phường vong ân bội nghĩa”, phải dạy cho bài học và hăm dọa còn nhiều bài học khác nữa. Nhưng khi LX sụp đổ, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Nhà nước Lê Đức Anh xin nối lại bang giao với TC, chấp nhận sẽ “hợp tác toàn diện và lâu dài” với Bắc Kinh. Lần này TC tha hồ chèn ép, gây nhiều thiệt thòi cho VN, điển hình là mất đất mất biển, mất hai đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vụ khai thác Bâuxít ở Cao nguyên… Trên đây là nan đề của những người CS, cũng là mối ưu tư của đồng bào về sự an nguy của đất nước. Thời đại HCM đã tạo ra những vấn nạn lớn cho dân tộc, mà những người lãnh đạo đất nước không có khả năng giải quyết, họ chỉ biết kiên trì với tư tưởng HCM. Tôi kỳ vọng vào Thời đại của tôi -của G/s Vũ Quốc Thúc, một chiến sĩ quốc gia mà suốt cuộc đời đã dấn thân đấu tranh vì nền độc lập của quốc gia, vì dân chủ tự do cho đồng bào vì sự tồn vong của đất nước. Tác phẩm của ông sẽ giúp những người CS và đồng bào thấy được thời đại của dân tộc diễn tiến ra sao? Nhờ đó mới có thể định hướng con đường phát triển đất nước. G/sư VQT đã chứng kiến và trực tiếp tham dự vào những biến cố lớn của thời đại. Tháng Ba 1945, với văn bằng Cử nhân Luật, ông được bổ nhiệm làm tri huyện Thanh Liêm khi chánh phủ VN độc lập đầu tiên ra đời do cụ Trần Trọng Kim làm thủ tướng. Năm 1946, ông cũng như bao người VN yêu nước khác đã tham gia Mặt trận Việt Minh kháng chiến chống thực dân Pháp. Lúc bấy giờ Pháp là một trong năm nước Đồng minh thắng trận. Tuân thủ quyết định của Đồng minh, khi trở lại Đông Dương giải giới Nhật hồi tháng 9/1945, Pháp đã thương lượng với người bản xứ để trao trả độc lập cho các cựu thuộc địa, hầu duy trì ảnh hưởng của mình. Pháp đã ký thỏa ước 6/3/1946 với ông Hồ Chí Minh, mở ra cuộc đàm phán Việt Pháp về tương lai đất nước VN. Rất tiếc, việc đàm phán chỉ kéo dài 6 tháng, ông HCM phát động toàn quốc kháng chiến. Pháp phải thương lượng với cựu hoàng Bảo Đại và những người Quốc gia. Ngày 8/6/1948, Cao uỷ Bollaert nhân danh chính phủ Pháp và Nguyễn Văn Xuân -thủ tướng chính phủ Cộng hòa Nam Kỳ, được Bảo Đại cử giữ chức vụ Thủ tướng Chính phủ trung ương Quốc gia lâm thời, đã ký thỏa ước Vịnh Hạ Long. Pháp nhìn nhận VN độc lập và tự do thực hiện sự thống nhứt quốc gia. Nước nhà đã độc lập và thống nhất, ông Vũ Quốc Thúc được bổ nhiệm làm Công cán ủy viên phủ thủ tướng, được TT Xuân cử sang Pháp làm việc, để tiếp tục việc học, trao dồi kiến thức để phục vụ đất nước sau này. Ông đổ bằng Tiến sĩ Luật (Doctor of Law) năm 1950 và Thạc sĩ Kinh tế (Agrégé of Economics) tại Đại học Paris. Sau khi tốt nghiệp, ông về phục vụ quốc gia trong cương vị Tổng trưởng Bộ Giáo dục và Thanh niên trong Nội các của Hoàng thân Bửu Lộc (1953-54). Sau HĐ Genève 1954, Giáo sư Thúc đảm nhận chức vụ Thống đốc Ngân hàng Quốc gia (VNCH) trong giai đoạn 1955-56 và sau đó là Khoa trưởng Luật khoa Viện Đại học Sàigòn (1957-1963) Năm 1960, Hà Nội thành lập MTGPMN, phát động chiến tranh xâm lược MN. Tân tổng thống HK Kennedy tiến hành ngay kế hoạch giúp VNCH chống CS nổi dậy, theo đề nghị của Cố vấn Quân sự là Đại tướng Maxwell Taylor: gởi cố vấn quân sự đến giúp Nam VN. Đồng thời, Walt W. Rostow -phụ tá tổng thống về an ninh quốc gia đệ trình kế hoạch “chống phá hoại”. Theo Rostow, VNCH phải chấm dứt bất công xã hội, nâng cao đời sống nhân dân về kinh tế, chính trị, văn hóa. Trong một nước nông nghiệp như Nam VN “nông dân là biển nước nuôi cá du kích” nên vấn đề chủ yếu là phải tranh thủ người nông dân, tách họ khỏi sự kiểm soát của CS, mở ra cho họ thấy những triển vọng tốt đẹp hơn ở tương lai. Rostow nhận định “Đây là cuộc chiến tranh sâu sắc, không phải chỉ đánh bằng vũ khí mà còn đánh trong tâm trí con người sống ở các làng mạc và đồi núi, đánh bằng tinh thần và đường lối của chính phủ bản xứ. Thực chất đó là cuộc tranh chấp trong phạm vi một dân tộc mà những người đứng ngoài không thể thắng được, nhưng chỉ có thể tạo ra những điều kiện để người dân bản xứ chiến thắng cuộc chiến tranh của chính họ”. Lúc bấy giờ Gs Thúc là Cố vấn Kinh tế của TT Ngô Đình Diệm, ông đã hợp tác với Giáo sư Kinh tế Eugene A. Staley thảo ra đề án thu phục nhân tâm chống lại sự khuynh đảo của CS. Bản tường trình (Staley- Vu Quoc Thuc joint report) được đệ nạp lên TT Diệm và Kennedy hồi tháng 4 năm 1961. Đầu năm 1965, MNVN đang bên bờ vực sụp đổ, HK phải trực tiếp đưa quân chiến đấu đến bảo vệ VNCH. TT Johnson tuyên bố mục tiêu can thiệp của HK là để áp lực Hà Nội ngồi vào bàn bàn phán để giải quyết vấn đề MN bằng con đường hòa bình. Một khi hiệp định hòa bình đã được ký kết, HK sẽ rút khỏi MNVN vô điều kiện. Từ cuối 1966, HK đã chuẩn bị kế hoạch hậu chiến cho Nam VN. Cuối tháng 10/ 1966, lãnh tụ các nước Đồng minh có quân tham chiến ở NVN đã gặp gở giới lãnh đạo VNCH tại hội nghị Manila (Phi Luật Tân). Họ đưa ra sáng kiến hòa bình bằng đề nghị quân ngoại nhập cùng rút khỏi MNVN để nhân dân MN thực hiện việc hòa giải dân tộc. Đồng thời họ đề xướng kế hoạch phát triển vùng Á Châu/Thái bình Dương với việc thành lập Ngân hàng Phát triển Á Châu (ADB). Hội nghị còn đưa ra hai tuyên ngôn quan trọng về tự do, hòa bình và tiến bộ ở VN và toàn khu vực Á Châu/TBD với 4 mục tiêu chung: chống xâm lược; chống nạn nghèo đói, bệnh tật và thất học; xây dựng khu vực an ninh và tiến bộ; thực hiện việc hòa hợp và hòa bình giữa các dân tộc trong vùng. (Lyndon B. Johnson, The Vantage Point: Perspectives of the Presidency, Redwood Press Ltd, London, 1972, PP.248-49) Trong thời gian này (1966-1967) G/s Thúc cùng Giáo sư David E.Lilienthal là Chủ tịch Hội đồng Phát triển và Tài nguyên HK hoạch định chiến lược phát triển VN thời hậu chiến, mà trọng tâm là đồng bằng sông Cữu Long. G/s Lilienthal là bạn thân của TT Johnson, ông là một chuyên gia xuất sắc từ 1933 đã giúp TT Franklin D. Roosevelt phục hồi kinh tế HK sau thời kỳ đại khủng hoảng 1932. Để bảo đảm kế hoạch phát triển đồng bằng sông Cữu Long, hai chuyên viên kinh tế Việt Mỹ đã trù liệu sự hợp tác của bốn thế lực lớn trong vùng là VNCH, Mặt trận GPMN và hai tôn giáo Hòa Hảo, Cao Đài. Đó là chủ điểm của kế hoạch hậu chiến, thực hiện việc hòa giải dân tộc, xúc tiến chương trình Ngưòi Cày Có Ruộng, để tranh thủ nhân tâm, chiến thắng CS bằng con đường chính trị và hòa bình. (Google/vuquocthuc/ rfi/lilienthal-vuquocthuc) Khi cuộc đàm phán bắt đầu diễn ra ở Paris (5/1968) G/s Thúc đảm nhận chức vụ Quốc Vụ Khanh đặc trách Tái thiết và Phát triển trong Nội các Trần Văn Hương và Trần Thiện Khiêm. Bản báo cáo về chính sách và chương trình hậu chiến của VN được G/sư Thúc và Lilienthal đệ trình TT Thiệu và Nixon (4/1971). Không may cho dân tộc VN, với sự ủng hộ quân sự tận tình, viện trợ kinh tế dồi dào, HK đã tạo điều kiện thuận lợi giúp người dân MNVN chiến thắng cuộc chiến của chính họ qua cuộc tuyển cử dân chủ tự do. Kế hoạch bất thành vì TT Thiệu không bao giờ chú tâm vào thời hậu chiến mà chỉ nghĩ đến chiến tranh. Sau đó đến lượt CSVN xé bỏ HĐ Paris 1973, tạo ra cuộc chiến mới với TC và Khmer Đỏ. Năm 1985 trong bài viết tựa đề “Tái thống nhất đất nước: CSVN thành công hay thất bại? G/sư Thúc đã thẩm định khá chi tiết biến cố 30/4/1975 về ba mặt ngoại giao, kinh tế và chính trị; sau đó đưa ra kết luận: “Ta có quyền khẳng định rằng CSVN, khi mở chiến dịch HCM để tái thống nhất đất nước bằng vũ lực, đã đạt được một thắng lợi nhất thời, có tính cách chiến thuật (tactique) nhưng họ đang bị thất bại nặng nề về chiến lược (stratégique) trong dài hạn. Sự thất bại chiến lược này có thể khiến cho chế độ CS tại VN biến đổi sâu xa, nếu không phải là sụp đổ. Nhưng đồng thời nó đang làm cho dân tộc ta bị điêu đứng, nghèo khổ, gánh chịu thêm nhiều đau thương tang tóc”. Trước thảm trạng của đất nước, G/sư Thúc quyết định sẽ đặt lại vấn đề trở lại HĐ Paris 1973, tạo điều kiện giúp hai phe Quốc gia và Cộng sản ngồi lại với nhau hoàn thành việc tái thống nhất đất nước trong tinh thần hòa hợp và hòa giải, vừa góp phần giải quyết cuộc chiến ở Cam Bốt, đem lại một nền hòa bình lâu dài cho Đông Dương. Ngày 23/5/1987 tại Paris, với sự hỗ trợ tích cực của Ủy ban Pháp quốc Yểm trợ Việt Nam Tự do, Giáo sư Thúc đã tổ chức một cuộc hội thảo công khai về việc trở lại HĐ Paris 1973. Nhân dịp này Ủy ban Luật gia VN đặt lại vấn đề hiệu lực của HĐ Paris 1973 (Comité de jurists vietnamiens pour le remise en vigueur des Accords de Paris de 1973) đã công bố chính thức Bạch thư (Livre Blanc) với tựa đề Guerre et Paix en Indochine (Chiến tranh và hòa bình ở Đông Dương). Để trở lại HĐ Paris 1973 nhằm giải quyết những vấn đề nan giải của các nước ĐD, Bạch thư kêu gọi Pháp Quốc đứng ra triệu tập một hội nghị Paris mở rộng bao gồm 5 thành viên thường trực Hội đồng Bảo An, 4 nước nguyên là thành viên Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến Đông Dương 1954, hai phe Quốc Cộng của ba nước Việt, Lào và Cam Bốt. Vì sự thiển cận của những người trong cuộc, hội nghị quốc tế về VN không được triệu tập trở lại. Trái lại cuộc chiến ở Cam Bốt lại được giải quyết bằng HĐ Paris 1991. Hiệp định này gần như rập khuôn HĐ Paris 1973 về hòa giải dân tộc, các thành phần chính trị tham gia cuộc tuyển cử tự do có quốc tế giám sát, quốc hội lập hiến ra đời. Cuộc tranh chấp quốc tế biến thành cuộc tranh chấp trong nội bộ dân tộc, được nhân dân Khmer tự quyết định bằng một cuộc đầu phiếu tự do. Từ 1995, HK đã bình thường hóa bang giao với Hà Nội, VN lần lượt gia nhập khối ASEAN và APEC (1998) và chuẩn bị xin gia nhập WTO. G/sư Thúc là thành viên sáng lập Phong trào Hiến Chương 2000 với mục đích tranh đấu cho một nền dân chủ đích thực tại VN, trong đó nhân quyền và các quyền tự do căn bản của người dân phải được tôn trọng. Muốn thế VN phải được chuyển hóa từ chuyên chính sang dân chủ, để dễ dàng hội nhập với cộng đồng thế giới, phát triển đất nước trong thời đại toàn cầu hóa. Đến những năm đầu của thế kỷ 21, nhìn thấy CSVN bị Bắc Kinh khống chế nặng nề, nên G/sư VQT thành lập Ủy ban Vận động Quy chế Trung lập Vĩnh viễn cho Việt Nam tại Paris (4/2006). Tôi đặt nhiều kỳ vọng vào sáng kiến này, vì cuối nửa thế kỷ trước, VN đã diễn ra cuộc đối đầu giữa ba thế lực lớn: LX, TC và HK. Để tiến tới HĐ Paris 1973 kết thúc chiến tranh VN, TT Nixon đã đi du thuyết Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa, mở ra thời kỳ hòa hoãn và hợp tác với hai cường quốc CS đàn anh. HK rút khỏi Nam VN và mong muốn một nước VN thống nhất đi theo con đường trung lập như các nước ASEAN với chủ trương biến ĐNÁ thành một khu vực hòa bình tự do và trung lập và phồn vinh. Vì sự tính toán sai lầm của Hà Nội, mà trong 35 năm qua, VN trở thành nạn nhân của Bắc Kinh. Nhưng có điều may mắn, vì quyền lợi chiến lược, mới đây HK tuyên bố trở lại ĐNÁ để cân bằng thế lực với TC. Chủ trương của Mỹ không phải để bao vây uy hiếp Bắc Kinh mà chỉ nhằm tạo sự ổn định để cùng các nước Á Châu Thái Bình Dương và Ấn Độ hợp tác kinh tế và thương mãi, phát triển khu vực này mà thôi. Đây là thời cơ tốt để VN đi vào con đường trung lập thực sự: không theo TC chống HK hoặc theo HK chống TC. Mà cùng các nước chung quanh biển Đông trong khối ASEAN đấu tranh đòi chủ quyền của mình trong khu vực này. Qua trình bày trên, tôi rất tâm đắc với Lời Mở Đầu của tác giả: “Tương lai đất nước tùy thuộc rất nhiều ở cách suy tư cũng như xử sự của mọi người Việt, đặc biệt của những kẻ đang cầm quyền”. Đến phần Kết Luận, tác giả nói đến nổi thăng trầm của dân tộc trong suốt thế kỷ XX, đã tác động như thế nào đến cuộc đời của chính mình cũng như đồng bào cùng thế hệ của mình, để suy tư và tìm cách đối phó. Tôi kỳ vọng, sau khi đọc Cuốn 1 sơ lược về lịch sử, sẽ có nhiều người không còn dửng dưng trước vận nước, đứng bên lề lịch sử, mà nói lên những suy tư và cách hành xử của mình. Sự đóng góp của tác giả đối với lịch sử là một việc không phải ai cũng làm được. Lịch sử do con người tạo ra, các sử gia dựa vào những sự kiện xảy ra theo đúng nguyên trạng rồi sắp xếp lại có suy nghĩ, để tạo thành toàn cảnh chung (tương đối) trung thực. Lịch sử khách quan, vì tính vô tính, vô tình và vô thần của nó…Nhưng con người thì trái lại: biết suy tư và hành xử. Lịch sử và Con người, Con người và Lịch sử gắn bó nhau, xã hội mới tiến bộ và tồn tại. Xưa nay trong thời loạn, thời thế tạo anh hùng là lẽ thường tình. Có thể tìm thấy số người nầy qua các tác phẩm hoặc hồi ký: con người và sự nghiệp. Sự nghiệp đó được tạo nên, dựa trên xương máu hàng triệu đồng bào…mà ít ai nghĩ đến đất nước điêu tàn, tụt hậu, mất đất, mất biển. Còn đồng bào thì sao? Nhân tâm ly tán, đạo đức suy đồi, hận thù chia rẻ, lìa bỏ quê hương tìm tự do hoặc tha phương cầu thực… Trong bối cảnh lịch sử như vậy, con người có liêm sĩ sẽ phải hành xử ra sao cho phải đạo? Điều bất hạnh cho dân tộc là số người có trách nhiệm đối với lịch sử rất hiếm. Với 90 tuổi đời và gần suốt cuộc đời phục vụ quốc gia dân tộc, từng giữ những chức vụ cao, tác giả có đủ tư thế viết hồi ký ghi lại sự nghiệp của mình như nhiều nhân vật lịch sử cùng thời. Nhưng tác giả đã không làm, chỉ vì không muốn nói đến “cái tôi thật đáng ghét”. Nhưng ngày nay, phải nói đến cái “tôi” chỉ vì tấm lòng đối với lịch sử, đối với dân tộc. Đó là cái tôi của kẻ Sĩ phương Đông. Tôi cầu mong sẽ có nhiều “cái tôi đáng kính” lên tiếng tiếp theo. Trong phần kết luận, tác giả có nhắc câu nói của nhà cách mạng tiền bối Phan Bội Châu: “Ví thử đường đời bằng phẳng cả. Anh hùng hào kiệt có hơn ai? khiến tôi nhớ đến hai câu đối nổi tiếng của hai nhân sĩ Bắc Hà hồi đầu thế kỷ XIX: Ngô Thì Nhậm (1746-1803) và Đặng Trần Thường (1759-1816). Cả hai cùng sinh quán Hà Đông, song vì hoàn cảnh đất nước nhiễu nhương trong thời Nam Bắc phân tranh, nên chí hướng khác nhau. Đặng Trần Thường sau khi phò tá vua Gia Long giành được toàn bộ quyền lực, ông đưa người bạn thuở hàn vi ra trước Văn Miếu Hà Nội để hành tội. Ông đưa ra câu đối buộc đối thủ, nay đã sa cơ phải đối đáp lại: “Ai công hầu, ai khanh tướng. Trong trần ai, ai dễ biết ai”. Ông tưởng rằng câu đối hóc hiểm, chỉ vỏn vẹn 13 chữ song có đến năm chữ Ai, thì địch thủ làm sao có thể đối lại nổi? Đó là cách hạ nhục kẻ thù bại trận của một người hãnh tiến gặp thời. Nhưng ông đã lầm, Ngô Thì Nhậm ung dung đáp lại “Thế Chiến quốc, thế Xuân thu. Gặp thời thế, thế thời phải thế”. Hai câu đối trên đã đi vào lịch sử. Ngoài giá trị văn học, đối nhau thật chỉnh cả ý lẫn lời…nó còn thâm thúy về mặt đối nhân xử thế, về nhân cách con người để hậu thế học hỏi. Xưa nay thời thế, nhất là thời loạn, tạo biết bao anh hùng…Nhưng có mấy ai biết hành xử thích nghi với tình thế, hầu mang lại lợi ích cho quốc gia dân tộc? Ai hơn ai là ở điểm này. Tại sao đất nước vẫn còn tụt hậu, đạo đức suy đồi? Chỉ vì một sự thật đau lòng: Vắng bóng kẻ Sĩ! Vì thế đôi điều cảm nghĩ của tôi xuất phát từ lòng ngưỡng mộ một kẻ Sĩ ở tuổi đại thọ mà còn dấn thân vì đại nghĩa dân tộc. Người xưa thường nói “Tri nan hành dị”. Quả thật, biết và hiểu sự việc trên đời rất khó. Hiểu sai tất phải làm bậy, lại cuồng tín cố chấp, không nhận sai lầm, nhứt là đối với người lãnh đạo đất nước, sẽ gây tác hại lâu dài cho dân tộc. Thời đại của tôi - Cuốn I: Nhìn lại 100 lịch sử, cho thấy tác giả phần nào đã thấu hiểu chuyện quốc gia đại sự. Và tác giả đã hành xử ra sao trong Cuốn II: Đời tôi trải qua các cuộc thăng trầm của đất nước. Cuốn I là lịch sử, cuốn II là con người trong bối cảnh lịch sử đó. Giáo sư Vũ Quốc Thúc đã “Tri Hành Hợp Nhứt”.
|