Gởi bạn hiền tham khảo... mà chơi, chứ theo mấy cái luật này mệt quá , mất cả thi hứng. 1. Thất luật Để biết một bài thơ có thất luật hay không thì nhìn vào các chữ thứ 2, 4, 6. Trong mỗi cặp câu thì các chữ thứ 2, 4, 6 của câu trên phải khác nhóm thanh (bằng hay trắc) với chữ thứ 2, 4, 6 của câu dưới. Trong cùng một câu thì chữ thứ 2 phải khác nhóm thanh với chữ thứ 4 và cùng nhóm thanh với chữ thứ 6. Thí dụ bài thơ thất luật: Tự trào Vùng đất Sơn Tây nảy một ông Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng Sông Đà núi Tản ai hun đúc Bút thánh câu thần sớm vãi vung Chữ chữ nôm nôm nào kém cạnh Khuyên khuyên điểm điểm có hay không Bởi ông hay quá ông không đổ Không đổ ông càng tốt bộ ngông (Tản Đà) Đèo Ba Dội Một đèo, một đèo, lại một đèo Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo Cửa son đỏ loét tùm hum nóc Hòn đá xanh rì lún phún rêu Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo Hiền nhân quân tử ai là chẳng Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo (Hồ Xuân Hương) 2. Thất niêm Muốn xét một bài thơ có thất niêm hay không thì nhìn chữ thứ 2: - Chữ thứ 2 câu 2 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 3 - Chữ thứ 2 câu 4 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 5 - Chữ thứ 2 câu 6 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 7 - Chữ thứ 2 câu 8 cùng nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 1 Thí dụ bài thơ thất niêm: Dĩ hoà vi quý Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu Làm chi cho có sự đôi co Ðấy cậy đấy khôn, đây chẳng nhịn Ðây rằng đây phải, đấy không thua Duật nọ hãy còn đua với bạng Lươn kia hầu dễ kém chi cò Chữ rằng: Nhân dĩ hòa vi quý Vô sự thì hơn, kẻo phải lo (Nguyễn Bỉnh Khiêm) Hà tiện Giàu thì ba bữa khó thì hai Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy Nón đổi lá ngoài quần đổi ống Dép thay da mặt túi thay quai Dặn vợ có cà đừng gắp mắm Bảo con bớt gạo bỏ thêm khoai Thế gian mặc kẻ cười hà tiện Ta chẳng phiền ai chẳng luỵ ai (Nguyễn Minh Triết) 3. Lạc vận/Cưỡng vận Vần là yếu tố quan trọng để tạo nhạc cho thơ. Do đó cần phải tránh gieo vần cưỡng ép hay lạc vận. Nếu không dùng vần chính thì nên lựa vần thong càng gần nhau càng tốt. Thí dụ bài thơ lạc vận: Thu vịnh Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu Nước biếc trông như tầng khói phủ Song thưa để mặc bóng trăng vào Mấy chum trước giậu hoa năm ngoái Một tiếng trên không ngỗng nước nào Nhân hứng đã vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào (Nguyễn Khuyến) Than thời loạn Lửa hồng từ dậy mái thành đô Đòi chốn lầm than chyện được thua Xanh biếc thú quê người ẩn dật Bạc đen đường thế khách bôn xu Suy tường mỗi mỗi đau lòng trí Tính quẩn trần trần nát dạ ngu Muốn đến Vỵ Xuyên tìm hỏi Lữ Rằng Thương xưa cũng thế này ư (Khuyết danh) Thơ cưỡng vận: Không chồng mà chửa Cả nể cho nên hoá dở dang, Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng. Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,(1) Phận liễu sao đà nảy nét ngang.(2) Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?(3) Mảnh tình một khối thiếp xin mang.(4) Quản bao miệng thế lời chênh lệch Những kẻ không mà có mới ngoan (Hồ Xuân Hương) (1)-(2) ở đây, dùng lối chơi chữ Hán. Chữ Thiên là trời nhô đầu lên thì thành chữ Phu là chồng; chữ Liễu là rõ hoặc hết, đồng âm với cây liễu chỉ người con gái, nếu thêm một nét ngang thì thành chữ Tử là con. Hai câu này ý nói: Gái chưa chồng mà sao đã có con trong bụng? (3)-(4) Tình và nghĩa gắn liền đặc tính truyền thống của tạ Hồ Xuân Hương nhấn mạng cái nghĩa, cái trách nhiệm mà người đàn ông nào đó thường vô tâm trước hậu quả để lại cho người phụ nữ. (5) Tác giả đứng về phía người con gái mà dùng ý một câu ca dao: "Không chồng mà chửa mới ngoan; Có chồng mà chửa thế gian sự thường"! Đêm buồn Trời không chớp bể với mưa nguồn Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn Bối rối tình duyên cơn gió thoảng Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng Ngủ quách sự đời thây kẻ thức Bên chùa thằng trọc đã hồi chuông (Trần Tế Xương) 4. Thất đối Đối chiếm địa vị quan trọng trong thơ ĐL. Bỏ đối đi thì không còn được gọi là thơ ĐL nữa. Thí dụ bài thơ thất đối: Nghe hát Phách ngọt đàn say nệm gối êm Tiếng ca buồn nổi giữa trời đêm Canh khuya đưa khách lời reo ngọc Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm Ai lạ nghìn thu xa tám cõi Sao vàng như động phía châu liêm Nao nao khói biếc hài thương nữ Trở gối hoa lê rụng trắng thềm (Vũ Hoàng Chương) Nghẹn bước Nắng rụng gầy sương đường lỡ thì Thương người khăn gói nghẹn chân đi Quán nghiêng nửa mái chờ giông tố Ngõ hẹp mây đùn sập nét mi Quỷ dựng đàng sau muôn lớp ải Lòng nghe nai gặm cỏ biên thuỳ Xoa tay nhớ lại mùa xuân trước Phấn bướm còn vương nhịp trúc ty (Vũ Hân) 5. Khổ độc Lỗi khổ độc rất phổ biến trong các người làm thơ ĐL mà không rành luật thơ, ngay cả đối với một số nhà thơ nổi tiếng cũng có khi mắc phải. Thí dụ: Hát bội Đứa mắc ghẻ ruồi, đứa lác voi Bao nhiêu xiêm áo cũng trơ mòi Người trung mặt đỏ đôi tròng bạc Kẻ nịnh râu hoe mấy sợi còi Trên trính có nhà còn lợp lọng Dưới chân không ngựa lại giơ roi Hèn chi chúng nói bội là bạc Bôi mặt đánh nhau, cú lại thoi (Phan Văn Trị) 6. Trùng vận Thơ ĐL chỉ dùng đơn vận, nếu cùng một chữ vần được dùng lặp lại ở hai câu khác nhau thì gọi là trùng vận, bài thơ sẽ hỏng. Tuy nhiên nếu chỉ là tiếng đồng âm mà khác nghĩa thì được coi là 2 chữ vần khác nhau, không phạm lỗi. Tuy nhiên không nên để hai vần đồng âm gần nhau để tránh nghe đọc không hay. Thí dụ: Thăng long hoài cổ Tạo hoá gây chi cuộc hí trường Đến nay thắm thoát mấy tinh sương Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo Nền cũ lâu đài bóng tịch dương Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt Nước còn cau mặt với tang thương Nghìn năm gương cũ soi kim cổ Cảnh đấy người đây luống đoạn trường (Bà huyện Thanh Quan) Chữ "trường" câu 1 với chữ "trường" câu 8 có nghĩa khác nhau nên không phạm lỗi trùng vận . Cũng vậy trong bài sau, hai chữ cờ có nghĩa khác nhau: Cảm tác Mấy chục năm qua gió bụi mờ Tưởng rày bớt đục hoá thêm nhơ Mặt đành bôi mặt gà chung mẹ (*) Tay sẵn ngon tay gió phất cờ (**) Ruột đứt non song trời Bến Hải Sầu vương cây cỏ đất Cần Thơ Đêm đêm dưới nguyệt gươm mài hận (***) Ai nữa chung tay lật thế cờ (T. X.) (*) Gà nhà bôi mặt đá nhau (**) Theo gió phất cờ (***) thơ Đặng Dung: Kỷ độ Long tuyền đái nguyệt ma (dưới trăng bao bận tuốt gươm mài) Nhưng nếu để hai vần đồng âm gần nhau sẽ nghe rất dở! Thí dụ: Tám phương bước lạc đến công trường Thấy cảnh tình ai khỏi đoạn trường (Khuyết danh) 7. Trùng từ Cùng một chữ được dùng nhiều lần ở trong bài thơ, ngoại trừ trường hợp cố ý, thì gọi là lỗi trùng từ hay điệp từ. Thí dụ bài thơ trên của BHTQ bị trùng từ ở hai chữ "cũ" Dùng lại chữ một lần thì tạm chấp nhận, dùng lại hai, ba lần thì bài thơ bị đánh giá là kém cỏi. Trong trường hợp sử dụng mỹ từ pháp điệp ngữ thì không tính là lỗi. Thí dụ: Dại khôn Thế sự đua nhau nói dại khôn Biết ai là dại biết ai khôn ? Khôn nghề cờ bạc là khôn dại Dại chốn văn chương ấy dại khôn Mấy kẻ nên khôn đều có dại Những người có dại mới nên khôn Cái khôn ai cũng khôn là thế Mới biết trần gian kẻ dại khôn (Trần Tế Xương) Ghẹo cô bán cau Hỏi cau ai bán tiếng nghe rao Tốt vóc mà trong biết thế nào Giấu để trong buồng e đóng đục Bày ra trước mắt thấy ngon dao Muốn mua nên phải coi từ vú Có bán xin cho thử chút mào Chuốt ngót của mình ai dám chắc Biết lòng biết mặt xỉa tiền trao (Đỗ Thanh Tân) Hỏi thăm ông ấm Tôi hỏi thăm ông đến tận nhà Trước nhà có miếu có cây đa Vườn ao đất cát chừng ba thước Nửa lá tre pheo đủ mọi toà Mới sáu bận sanh đà sáu cậu Trong hai dinh ở đủ hai bà Lưng ông mốc thếch như trăn gió Ông được phong lưu tại nước da (Trần Tế Xương) Cũng là trùng từ khi hai chữ đọc khác nhau nhưng cùng một nghĩa, thí dụ: Tặng biệt Dù bắc dù nam cũng một trời Ba sinh tan hợp cái trò chơi Cười ta tri kỷ bên mình ít Mừng bạn cao đường dưới gối vui Trăng nước Cù Giang duyên mãi thắm Cỏ hoa Hồng Lĩnh bút thêm tươi Những đêm êm ấm lòng rung động Là biết nơi đây tớ nhớ người (T.X.) Ta và tớ đều nói cùng một nghĩa, phạm lỗi trùng từ nên giá trị bài thơ cũng giảm sút nhiều. 8. Trùng ý Trong bài thơ ĐL nếu có câu chữ nào lặp lại ý của các câu chữ đã dùng mặc dù dùng từ khác đi thì cũng bị lỗi trùng ý. Nếu lỗi trùng ý nằm trong hai câu thực, hoặc hai câu luận thì gọi là hiệp chưởng (câu trên câu dưới đối nhau mà ý nghĩa giống nhau như hai bàn tay úp lại). Thí dụ: Thách hoạ Thế sự nhìn xem rối cuộc cờ Càng nhìn càng nghĩ lại càng dơ Đánh tan tục niệm hồi chuông sớm Gõ vỡ trần gian tiếng mõ trưa Chu tử ngán mùi nên vải ấm Đỉnh chung lợm giọng hoá chay ưa Lên đàn cứu khổ toan quay lại Bể ái trông ra nước đục lờ (Công chúa em Minh Mạng) Vịnh pháo tre Đông tàn xuân đã đến đây be Bốn phía rền vang những pháo tre Mắng tiếng giật mình loài quỷ xó Nghe hơi mất vía lũ ma hè Trêu người trướng gấm kinh hồn điệp Ghẹo kẻ màn loan tỉnh giấc hoè Trừ cựu mượn chàng kêu một tiếng Mừng xuân muôn cửa chán tai nghe (Hương Kiểu) Nếu hai cặp thực và luận trùng ý nhau thì gọi là sàng túc (hai chiếc giường chồng lên nhau) hay là điệp sàng xá ốc (giường nhiều lớp, nhà gác chồng). 9. Phạm đề/Mạ đề Trong hai cặp thực và luận không được dùng chữ của đầu bài, nếu có chữ nào của đề lọt vào thì bị lỗi phạm đề hay mạ đề. Thí dụ: Theo voi ăn bã mía Ăn mía theo voi tiếng đến giờ Vì chi miếng bã để trò dơ Rón chân những chực khi vòi nhả Rát lưỡi đành xơi cái ngọt thừa Ấy đã theo đuôi thời phải hít Còn đâu nên tấm nữa mà vơ Nghìn năm bia miệng là câu thế Những khách ăn tàn đã biết chưa Tản Đà Bài này bị phạm đề ở chữ theo trong câu 5. 10. Điệp điệu Điệp điệu là khi nhiều câu liên tiếp ngắt nhịp cùng một cách. Lỗi này thường hay xảy ra ở các câu giữa của bài thơ. Thí dụ: Giữ mực thanh liêm Chớ nghĩ là quan đã bảnh bao Yêu nhau một giống nghĩa đồng bào Bới lông tìm vết / lòng không nỡ Giục bị xui nguyên / tội xiết bao Dấu đỏ loè dân / trò lính lệ Môi thâm hót nhảm / lối cường hào Kiếm xu không phải mình không thạo Bắt nạt dân đen có lẽ nào (Đặng Xuân Bảng) Hằng Nga Hỡi chị Hằng Nga náu Quảng Hàn Bốn mùa trăng gió với giang san Áo tiên / tuy nhuộm / mùi Vương Mẫu Hương tục / còn nồng / lửa Hậu Lang Mắt phượng / đã say / miền ngọc thỏ Cung nghê / nỡ phụ / khúc cầm loan Nếu không duyên nợ cùng người thế Xin chớ gieo mình nước hợp loan (Hồ Xuân Hương) 11. Bình đầu Bài thơ mà có nhiều câu liên tiếp bắt đầu bằng những tiếng cùng một từ loại, cùng một cấu trúc câu thì phạm lỗi bình đầu, ngoại trừ trường hợp cố tình làm có mục đích rõ rệt. Thí dụ: Đĩ già đi tu Lầu xanh thánh thót tiếng chuông chiền Tỉnh giấc Cao đường lúc ngửa nghiêng Mượn chiếc thuyền tình qua bể ái Đưa con sóng sắc tới rừng thiền Trông gương trí tuệ đau lòng tục Lần chuỗi bồ đề kết trái duyên Mát mẻ cửa Không trăng gió sẵn Dầu chưa nên Phật cũng nên tiên (Huỳnh Mẫn Đạt) Đón Tết Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu Rượu cúc nhắn đem hàng biếng quẩy Trà sen mượn hỏi giá còn kiêu Bánh đường sắp gói e nồm chảy Giò lụa toan làm sợ nắng thiu Thôi thế thì thôi đành tết khác Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo (Trần Tế Xương) 12. Thượng vỹ Trong bài thơ ĐL TNBC nếu chữ thứ 5, 6, 7 của nhiều câu liên tiếp (nhiều hơn 3) cùng từ loại và cấu trúc thì bài thơ phạm lỗi thượng vỹ. Thí dụ: Khuyên người đời Cho hay thiên hạ khéo xem gương Hễ khó thời thôi mấy kẻ màng Miệng nói đã đành mua chuyện ghét Tay không chưa dễ ép người thương Khéo khôn ai cũng tranh phần được Trong sạch ta thời giữ mực thường Ði lại chẳng qua thời với mệnh Cũng đừng thắc mắc, chớ lo lường (Nguyễn Công Trứ) Than nghèo Chẳng lợi danh gì lại hóa hay Chẳng gì phiền lụy chẳng ai rầy Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp Trong thú yên hà mặt tỉnh say Liếc mắt coi chơi người lớn bé Vểnh râu bàn những chuyện xưa nay Của trời trăng gió kho vô tận Cầm hạc tiêu dao đất nước này (Nguyễn Công Trứ) 13. Điệp thanh Trong thơ thất ngôn, một câu có 4 tiếng bằng và 3 tiếng trắc hoặc bốn tiếng trắc và ba tiếng bằng. Những tiếng bằng hay trắc đó phải có thanh độ khác nhau thì câu thơ mới giàu âm điệu. Thí dụ câu thơ có 4 tiếng bằng thì chỉ nên dùng 2 chữ có dấu huyền (trầm bình thanh), dùng 3 hoặc cả 4 chữ có dấu huyền làm câu thơ yếu ớt, giọng trầm trầm khó nghe. Ngược lại nếu dùng nhiều tiếng không dấu (phù bình thanh) sẽ làm câu thơ nghe ngang ngang không êm dịu. Thí dụ: Cung oán Trên đài hiu hắt ngọn đèn hoa Gang tấc xem bằng mấy dặm xa Một kiếp đã đành rằng để vậy Chín trùng có thấu đến chăng là Ỏi tai ngán nỗi đàn ve gảy Tan mặt buồn tênh cái nhện sa Ví biết than này chi khó bấy Quyền môn chen chúc chẳng bằng thà (Ôn Như Hầu) Than nghèo Chẳng chán ru mà quấy mãi đây Nợ nần dan díu bấy lâu nay Mang danh tài sắc cho nên nợ Quen thói phong lưu hoá phải vay Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay Còn trời còn đất còn non nước Có lẽ ta đâu mãi thế này (Nguyễn Công Trứ) 14. Điệp âm Điệp âm là những chữ có cùng âm đứng gần nhau trong một câu hoặc cùng vị trí trong hai câu. Thí dụ: Hồng dẫu hư lông đâu sợ sẻ Chồn toan mượn lốt để hù nai Giàn treo trã cá vung không đậy Bếp tạt mưa đêm nước nhỏ đầy Chim oanh đường cũ đương bay nhảy Chồi quế sân trong muốn thập thò (Khuyết danh) Hai tiếng cùng âm đứng kế liền nhau, các từ đôi lắp láy thì không kể là lỗi. Thí dụ: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo (Nguyễn Khuyến) Ngàn mai lác đác chim về tổ Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà (Bà Huyện Thanh Quan) Cái kiếp tu hành nặng đá đeo Chỉ vì một chút tẻo tèo teo Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc Trái gió cho nên phải lộn lèo (Hồ Xuân Hương) 15. Đại vận Bài thơ ĐL chỉ gieo vần ở các chữ cuối câu. Nếu chữ thứ 4 trong câu cũng vần với chữ cuối câu thì phạm lỗi đại vận Thí dụ: Bâng khuâng ngày xế cả than trời Ai đố cho người gánh nạn đời Làng đế đành theo ông hữu đạo Cõi phàm hỗ ngó lũ vô quân ... (Nguyễn Đình Chiểu) Siếu mai chi dám tình trăng gió Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh (Hồ Xuân Hương) Một ngày hai bữa cơm kề cửa Nửa bước ra đi lính phải hầu (Trần Tế Xương) Nước non nào phải của ai đâu Nhiều ít công hầu cũng mặc dầu (Nguyễn Bỉnh Khiêm) 16. Tiểu vận Nếu chữ thứ 2 trong câu vần với chữ thứ 6 hoặc thứ 7 thì phạm lỗi tiểu vận. Thí dụ: Chưa mở trí khôn đừng dở dại Muốn xong việc nước phải êm nhà (Nguyễn Đình Ngọc) Chín bệ dâng lời dù khép nép Bốn phương trông ngóng cũng nương nhờ (Phan Huy Ích) Thí dụ cả đại vận và tiểu vận: Thi hỏng Mai này tớ hỏng tớ đi ngay Cúng giỗ từ nay nhớ lấy ngày Học đã sôi cơm nhưng chửa chín Thi không ăn ớt thế mà cay Sách đèn phó mặc đàn con trẻ Thưng đấu nhờ tay một mẹ mày "Cống hỉ" "mét xì" đây thuộc cả Chẳng sang Tàu tớ cũng sang Tây (Trần Tế Xương) 17. Phong yêu Nếu chữ cuối câu trùng thanh dấu với chữ thứ 2 trong cùng câu thì gọi là lỗi phong yêu. Thí dụ: Để bụng phải đeo điều nhẹ nặng Ôm tai mặc quách tiếng chê khen (Trần Tế Xương) Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến Giong lèo thây kẻ ráp xui ghềnh (Hồ Xuân Hương) 18. Hạc tất Nếu chữ cuối câu trùng thanh dấu với chữ thứ 4 trong cùng câu thì gọi là lỗi hạc tất. Thí dụ: Nghe lời phi pháp tai làm điếc Nghĩ nỗi nhân tình ruột lại đầy (Khuyết danh) Tôn Phu Nhân Qui Thục Cật ngựa thanh gươm ven chữ tòng Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc Về Hán trau tria mảnh má hồng Son phấn thà cam dày gió bụi Đá vàng chi để thẹn non sông Ai về nhắn với Chu Công Cẩn Thà mất lòng anh được bụng chồng (Tôn Thọ Tường) Bài này câu 2 phạm phong yêu, câu 3 phạm hạc tất. Cảm hoài Chút nghĩa vương mang phải gắng đi Tang bồng đành rõ khí nam nhi Thuyền ngô phơi phới giăng hòn bạc Khói đá phăng phăng lướt tích ti La Hán dang tay chờ khách đến Tướng quân hé mắt hẹn ngày về Phen này miễn được hoà hai nuớc Nỗi tớ xin đừng bận bịu chi (Phan Thanh Giản) Bài này câu 1, 4 phạm hạc tất, câu 5 phạm phong yêu. 19. Chánh nữu Trong một câu có nhiều hơn hai chữ có cùng phụ âm đầu (hoặc bắt đầu bằng nguyên âm, không có phụ âm đầu) thì phạm lỗi chánh nữu. Thí dụ: Lưng dậu phất phơ màu khói nhạt Làn ao long lánh bóng trăng loe (Nguyễn Khuyến) 20. Bàng nữu Nếu các chữ có cùng phụ âm đầu hoặc bắt đầu bằng nguyên âm nằm gần nhau trên hai câu liên tiếp thì phạm lỗi bàng nữu. Thí dụ: Đón Tết Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu Rượu cúc nhắn đem hàng biếng quẩy Trà sen mượn hỏi giá còn kiêu Bánh đường sắp gói e nồm chảy Giò lụa toan làm sợ nắng thiu Thôi thế thì thôi đành tết khác Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo (Trần Tế Xương) Câu 1, 8 và câu 7 phạm lỗi chánh nữu, câu 1-2 phạm lỗi bàng nữu. Thí dụ: Viếng thành Huế sau ngày đình chiến Nắng nhạt chiều thu quạ rộn ràng Sầu vương lau lách lạnh thành hoang Tro tàn thư viện duyên ngao ngán Đá nát hoàng cung bước ngỡ ngàng Gầy gọ gió sương tùng Thế miếu Bẽ bàng trăng nước trúc Hương giang Trông vời Thiên Mụ mây man mác Lơ lửng chuông hôm rụng tiếng vàng (T.X.) TÀI LIỆU THAM KHẢO Dương Quảng Hàm - Văn Học Việt Nam Quách Tấn - Thi Pháp Thơ Đường
|