Home Văn Học Khảo Luận Bài Thơ Hồ Trường và tác giả Nguyễn Bá Trác.

Bài Thơ Hồ Trường và tác giả Nguyễn Bá Trác. PDF Print E-mail
Tác Giả: Phạm Thắng Vũ   
Thứ Tư, 29 Tháng 9 Năm 2010 05:32

Nếu nữ giới sính thơ (thích thơ) ưa bài Hai Sắc Hoa Ti-gôn của T.T.K.H,

 có tính cách than phiền vì chưa được (chồng) đối xử đúng mức như trong câu: "... Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời, Ái ân lạt lẽo của chồng tôi... ", thì nam giới lại ưa bài Hồ

 
Trường và trong các chiếu rượu, đã không ít người ngâm nga: "... Hồ trường, hồ trường, ta biết rót về đâu... Vỗ tay mà hát, nghiêng bầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường... "

Một thực tế là bài thơ Hồ Trường được nhiều người biết nhưng lại không... thuộc cả bài lẫn thân thế tác giả cùng lý do ra đời của nó.

Hồ Trường, chữ Hồ thuộc bộ Sĩ mang nghĩa cái bầu hay cái bình dùng để chứa chất lỏng và chữ Trường (hay còn đọc là Thương trong tiếng Tàu) thuộc bộ Giác mang nghĩa chén đựng rượu. Nguyễn Bá Trác, tác giả Hồ Trường sinh năm Tân Tị (1881) và chết năm Ất Dậu (1945) có hiệu là Tiêu Đẩu, người làng Bảo An huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam. Năm Bính Ngọ (1906), ông thi đậu Cử Nhân và sau đó hưởng ứng phong trào Duy Tân, Đông Du nên đã sang Nhật Bản du học. Khi chính quyền Nhật Bản thỏa hiệp được với thực dân Pháp, ông đã bị trục xuất và phải đào tị sang nước Tàu (Trung Hoa). Chính trong thời gian bôn ba bên Tàu, ông đã sáng tác ra bài thơ Hồ Trường.

Có là người phải sống trong cảnh bôn ba nơi xứ người, chúng ta mới thấu nỗi vô định của những chàng trai mưu cầu việc lớn nhưng việc lớn lại cứ xa vời nên đành mượn rượu mà gửi lời tâm sự. Chính Nguyễn Bá Trác đã viết trong Hạn Mạn Du Ký: " Loanh quanh trong nước một năm, rồi tạm trọ ở Xiêm La (Thái Lan) hơn 10 ngày, khách (tác giả Nguyễn Bá Trác) qua Nhật Bản một tháng rồi lại quay về Trung Hoa, bao nhiêu thương phụ to, tỉnh thành lớn như Ba Thục (miền Tây), U Uyên (đất Bắc),Quế Việt (cõi Nam), đều là chỗ mình có để ít nhiều vết xe dấu ngựa ".

Tình cảnh Nguyễn Bá Trác tương tự hoàn cảnh các thanh niên yêu nước của thế hệ ông và cả các thế đi sau. Chí cao vời vợi, nhiệt huyết sôi sục vì công cuộc cứu nước nhưng để sau cùng: Kẻ trôi nổi phiêu bạt hoặc bỏ xác nơi xứ người, người sống thì như một kẻ lưu vong (quê hương còn đó nhưng đâu về được) hoặc đau đớn thay, có người lại trở về nước hợp tác với chính quyền là thực dân Pháp.

Tình cảnh đó đã tạo ra tâm trạng buông trôi sống trong men rượu, khói thuốc và chí lớn đổ vào... hồ trường.

Tuy là tác giả bài thơ (hay bài ca) nổi tiếng như vậy nhưng hầu như không ai xếp Nguyễn Bá Trác là nhà thơ mà coi ông như một nhà văn qua những bài báo ông viết trên tờ Nam Phong Tạp Chí (từ năm 1917-1932) cùng các tác phẩm: Hoàng Việt Giáp Tí Niên Biểu, Hán Học Văn Học Khảo và nhất là một thiên ký sự có tên Hạn Mạn Du Ký được độc giả khi đó hết sức tán thưởng. Một tập du ký kể chuyện xuất dương qua Nhật Bản, Tàu cầu học nhưng sự học chưa có kết quả mà cái hy vọng cứu quốc cũng thành chuyện viển vông.

Khi về nước, Nguyễn Bá Trác đảm nhiệm chức vụ chủ bút về Hán Văn trong Nam Phong Tạp Chí rồi sau đó vào Huế làm Tá Lí Bộ Học, ít lâu ông được thăng chức Tuần Phủ Quảng Ngãi rồi Tổng Đốc Thanh Hóa, Bình Định.

Cũng có người lại nói nhân trong một chiếu rượu, khi nghe một người bạn Tàu (Nguyên Quân) hát nghêu ngao mấy câu thơ Cổ Phong mà Nguyễn Bá Trác đã cầm bút lên dịch và thành bài Hồ Trường.

Hồ Trường được đăng đầu tiên trên tờ Nam Phong Tạp Chí rồi sau đó đã được nhiều thế hệ thanh niên sao đi chép lại nên đã không tránh khỏi chuyện dị biệt. Dưới đây là 4 bản Hồ Trường mà tác giả bài viết này (PTV) sao lục để quý bạn đọc so sánh.

1. Bản in trong trang 327, quyển VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ GIẢN ƯỚC TÂN BIÊN (NXB Anh Phương, Sài Gòn năm 1965) của giáo sư Phạm Thế Ngũ.

Trượng phu không hay xé gan bẻ cột phù cương thường,
Hà tất tiêu dao bốn bể luân lạc tha phương.
Trời Nam ngàn dặm thẳm, mây nước một màu sương.
Học chẳng thành công chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thế bóng tà dương.
Vỗ tay mà hát, nghiêng bầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường, hồ trường, ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước bể Đông chảy xiết sinh cuồng lạn.
Rót về Tây phương, mưa Tây rơi từng trận chứa chạn
Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút đá chạy cát dương.
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt, có người quá chén như điên như cuồng.
Nào ai tỉnh nào ai say.
Chí ta ta biết lòng ta ta hay.
Nào ai tỉnh, nào ai say.
Chí ta ta biết lòng ta ta hay.
Nam nhi sự nghiệp ở hồ thì, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.

2. Bản đăng trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật (trong nước) số... năm 1998.

Trượng phu không hay xé gan bẻ cật phù cương thường.
Hà tất tiêu dao bốn bể, xuân lạc tha hương.
Trời Nam nghìn dặm thẳm, mây nước một màu sương.
Học không thành, công chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thế bóng tà dương.
Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang ai là tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước biển Đông chảy xiết sinh cuồng loạn
Rót về Tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan
Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút đá chạy cát dương
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt có người quá chén như điên như cuồng
Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, lòng ta at hay
Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây?

3. Bản in trong báo Thế Kỷ 21 (Hoa Kỳ), trang 8, số 115 ra tháng 11 năm 1998.

Trượng phu không hay xé gan bẻ cật phù cương thường,
Hà tất tiêu dao bốn bể, lưu lạc tha phương.
Trời Nam nghìn dặm thẳm, non nước một màu sương
Chí chưa thành, danh chưa đạt, trai trẻ bao lăm mà đầu bạc, trăm năm thân thế bóng tà dương.
Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi, trời đất mang mang ai người tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước biển Đông chảy xiết sinh cuồng loạn.
Rót về Tây phương, mưa phương Tây từng trận chứa chan.
Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút đá chạy cát giương.
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt có người quá chén như điên như cuồng.
Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, lòng ta ta hay
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.

4. Bản in trong quyển Chơi Chữ của tác giả Lãng Nhân-Phùng Tất Đắc, trang 75 (Sài Gòn-1970)

Trượng phu đã không hay xé gan bẻ cột phù cương thường,
Sao lại tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương?
Trời Nam nghìn dặm thẳm; mây nước một màu sương.
Học không thành, công chẳng lập, Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc; trăm năm thân thế bóng tà dương.
Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi: Trời đất mang mang, ai là tri kỷ? Lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước bể Đông chảy xiết sinh cuồng-lạn.
Rót về Tây phương, mưa Tây-sơn từng trận chứa chan;
Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút, đá chạy cát dương.
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt, có người quá chén như điên như cuồng.
Nào ai tỉnh, nào ai say?
Chí ta ta biết lòng ta ta hay.
Nào ai tỉnh , nào ai say?
Chí ta ta biết lòng ta ta hay.
Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây!

Ngồi ghế Tổng Đốc Bình Định, Nguyễn Bá Trác bị Cộng Sản bắt và xử bắn công khai tại Qui Nhơn trong giai đoạn Cách Mạng Tháng Tám năm 1945.

Văn nghệ sĩ miền Bắc trong chế độ Cộng Sản hầu như không biết đến bài Hồ Trường chỉ đến khi nó xuất hiện trên trang báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật. Họ đọc, thích và học thuộc rồi từ đó, trong các bữa nhậu bên quê nhà, ta mới thấy cái hơi... hồ trường khè ra trong men bia, rượu. Theo một nữ độc giả cho người viết bài này (PTV) biết tại sao nam giới lại thích bài Hồ Trường khi ngâm nga nó trong các... chiếu rượu? " Ông mãnh nào lại vừa ý với những gì mình có, mình đạt được ", người này nói vậy.

Bài thơ (hay bài ca) Hồ Trường rất hay nhưng có người lại cho PTV chớ nên học thuộc và ngâm nga nó vì sợ... vận vào số phận của mình.

Ho Truong va Nam phuong ca khuc

LTS: Trong văn học VN đầu thế kỷ hai mươi có một bài thơ đăng trên Nam Phong tạp chí và ngay lập tức nổi tiếng trong giới chí sĩ lúc bấy giờ. Đó là bài Hồ trường của

 
Bài Hồ Trường(trong HMDK)
in trên Nam Phong tạp chí
Nguyễn Bá Trác (1881-1945) đăng trên tạp chí Nam Phong.

Từ bấy đến nay, rất nhiều người đề cập đến bài Hồ trường như một tác phẩm của Nguyễn Bá Trác, có rất nhiều người vì yêu thơ rượu mà thích thú cái phong vị hào sảng trong bài thơ này.

Thế nhưng, kể cả các nhà nghiên cứu, ai cũng lầm rằng bài thơ trên do Nguyễn Bá Trác sáng tác. Cho đến năm 1998 trên báo TS chủ nhật có đăng một bài của Đông Trình dẫn lời Nguyễn Văn Xuân cho biết bài Hồ Trường do Nguyễn Bá Trác dịch lại từ một ca khúc của Trung Quốc.

Tuy nhiên, về mặt văn bản học, do vì xuất xứ phức tạp của bài thơ (thực ra là lời ca) Hồ Trường, nên các bản đang lưu hành tại VN xưa nay có nhiều điểm khác biệt nhau.

Nay nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân sưu lục được nguồn gốc xuất xứ của nguyên tác lời ca tiếng Trung Quốc (mà Nguyễn Bá Trác đã dịch thoát thành bài Hồ Trường), và dịch sát nghĩa lại để bạn đọc có dịp đối chiếu giữa nguyên tác, bản dịch nghĩa và lời thơ.

Xét về mặt tư liệu, đây là một đóng góp lớn cho việc minh định đâu là xuất xứ của Hồ Trường. Đồng thời, qua bài viết của tác giả Phạm Hoàng Quân, bạn đọc thấy hé mở một phần hành trạng của Nguyễn Bá Trác qua một trước tác khác là tập “Hạn mạn du ký”.

Cho đến nay, có ít nhất 5 bản in lời ca Hồ Trường (1) mà các bản có nhiều chỗ không giống nhau. Để góp một phần tài liệu cho sự tham khảo, đối chiếu được rộng rãi chúng tôi trích lục các văn bản bằng chữ Hán, chữ Việt đã in trên Nam Phong tạp chí - nơi xuất xứ của lời ca này - cách nay đã 86 năm đối với Nam phương ca khúc và 84 năm đối với Hồ Trường.

Trong bài viết này chúng tôi quy ước như sau: Gọi Hồ Trường đối với lời ca tiếng Việt đã lưu hành từ trước tới nay. Nam phương ca khúc là tên tạm đặt cho lời ca mà Nguyễn Bá Trác đã nghe được, chép lại và dịch thành lời ca Hồ Trường.

I. Nguồn gốc lời ca Hồ Trường

Nam phương ca khúc (NPCk) được đăng lần đầu tiên theo thiên ký sự Hạn mạn du ký(HMDK) của Nguyễn Bá Trác trên Nam Phong tạp chí phần chữ Hán số 30, trang 214 năm 1919.

HMDK trước tiên được viết bằng chữ Hán, đăng tải từ số 22 đến số 35 năm 1919, 1920; sau đó thiên ký sự này được chính tác giả dịch sang chữ Việt và đăng tải ở phần chữ Việt của Nam Phong từ số 38 đến số 43 năm 1920, 1921.

Hạn mạn du ký là thiên ký sự gồm 14 chương kể lại cuộc đông du của tác giả trong khoảng 6 năm (1909 - 1914) từ Sài Gòn sang Xiêm La - Hương Cảng - Nhật - Trung Hoa - rồi về VN.

Nam phương ca khúc nằm ở chương 10: “Tại Thượng Hải gặp người đồng hương”. Vào khoảng năm 1912, khi lưu lạc ở Thượng Hải, tác giả gặp một người đồng hương cùng chí hướng, người này có giọng hát hay (giọng Quảng Đông). Một đêm nọ, hai người đi uống rượu, “rượu ngà ngà, Nguyên quân đứng dậy mà hát” (lời Nam phương ca khúc), ở bàn bên cạnh, một võ quan họ Lưu, người Trực Lệ, nghe điệu hát, sang hỏi là điệu gì, được trả lời: “Ấy là một điệu đặc biệt ở phương nam” (2), họ Lưu nói “nghe tiếng bi mà tráng, nhiều hơi khảng khái, nam phương mà có điệu hát đến thế ru?”. Sau đó họ Lưu xin người hát chép ra giấy lời ca ấy để giữ xem.

Về mặt văn bản mà xét, thì bài ca ấy không rõ tựa đề, không biết tác giả, Nguyễn Bá Trác chép lại toàn vẹn Nam phương ca khúc. Và khi Hạn mạn du ký được sang chữ Việt thì lời ca này đã được dịch rất thoát, tuy nhiên nó vẫn là “lời ca” minh hoạ cho văn cảnh ấy chứ không phải “bài thơ hồ trường” như nhiều người từng gọi.

Cũng vì vậy, trong bài viết này, người viết xin gọi theo cách cũ là “Lời ca hồ trường” (3). Hồ trường so với Nam phương ca khúc có nhiều điểm khác biệt. Người dịch đã linh động nương theo âm điệu tiếng Việt và có chỗ thêm tứ có chỗ bớt lời, khéo giữ được cái thần thái hào sảng của nguyên tác.

Hồi ấy Hồ Trường được dịch thẳng từ lời ca chữ Hán sang lời ca chữ Việt mà không có bản dịch nghĩa, nay thấy cần có nguồn tài liệu để dựa vào mà đính chính một số điểm khác biệt của Hồ Trường, nên tôi chụp lại nguyên tác hán văn Nam phương ca khúc từ Nam Phong tạp chí, đồng thời phiên âm dịch nghĩa để bạn đọc tham khảo.

II. Nam phương ca khúc

Phiên âm:

Trượng phu sanh bất năng phi can chiết hạm vị thế phù cương thường
Tiêu dao tứ hải, hồ vị hồ thử hương
Hồi đầu nam vọng mạc vô cực hề, thiên vân nhất sắc đồ thương thương
Lập công bất thành, học bất tựu, thiếu tráng hữu cơ thời hề, toạ thị bách niên thân thế khu âm dương
Phủ chưởng cuồng ca vấn tư thế, mang mang thiên địa, an đắc tri nhất tri kỷ (4) hề, , thí lai đối chước hữu dư thương.
Dư thương trịch hướng đông minh thủy, đông minh chi thủy vạn đội khởi cuồng lan
Dư thương trịch hướng tây sơn vũ, tây sơn chi vũ nhất trận hà uông dương
Dư thương trịch hướng bắc phong khứ, bắc phong dương sa tẩu thạch phi thù phương
Dư thương trịch hướng nam thiên vụ, vụ trung hữu nhân khai khẩu nhất ẩm cừ nhiên túy
Thiên địa vũ trụ hồn tương vong, dư bất túy hĩ, dư hành dư chí
Nam nhi tự cổ sự tang bồng, hà tất cùng sầu khấp phần tử

Dịch nghĩa:

Kẻ trượng phu sống mà không vạch gan, bẻ cột lo giềng mối cho đời
Rong chơi bốn biển, quê hương ở nơi đâu?
Quay đầu trông về nam, miệt mù vậy hỉ! Trời mây nối màu xanh ngắt
Lập công chẳng được, học không xong, trai trẻ có bao lâu, ngồi ngó trăm năm, thân đuổi cuộc sớm chiều.
Vỗ tay hát khùng, hỏi đời kia, đất trời mờ mịt vậy, một người tri kỷ tìm ở đâu, thử đến giúp ta rót chén rượu này
Ta quăng chén rượu đầy trộn nước biển đông, nước biển đông nổi cuộn vạn lớp sóng
Ta quăng chén rượu đầy vào mưa núi tây, mưa núi tây một trận sao lênh láng
Ta quăng chén rượu đầy đuổi theo gió bắc, gió bắc tung cát lăn đá bay nơi khác
Ta quăng chén rượu đầy vào mây mù trời nam, trong mây mù có người há miệng điềm nhiên say tràn
Trời đất dọc ngang đều mất hết, sao ta không say, chí ta thời ta làm
Từ xưa nam nhi đuổi theo tang bồng, cớ gì sùi sụt sầu cố hương.

Qua bản phiên âm và dịch nghĩa NPCK, chúng tôi thấy cần dừng lại lưu ý một đôi chỗ. Số là trong HMDK đăng tải trên Nam Phong - ở cả phần chữ Hán và chữ Việt - không có phần chú thích các từ khó hiểu thuộc về điển tích đã dùng trong NPCK và Hồ Trường, nay xin nói thêm về các điển ấy.

Ở câu đầu tiên có cụm từ “xé gan bẻ cột”. Trong NPCK ta thấy viết là Bẻ cột - chiết hạm. (Có nhiều người lầm viết là bẻ cật). Theo các từ điển thông dụng Trung Quốc thì điển tích “bẻ cột” xuất phát từ sách Hán Thư – truyện Chu vân: Thời Hán thành Đế, Hòe Lý Lệnh (một chức quan trong hàng Tam Công) là Chu Vấn tâu với vua xin giết An Xương Hầu Trương Vũ, vua nổi giận sai chém Chu vân. Khi bị bắt lôi đi, Chu Vân uất ức bám tay vào vặn cột điện, cột cung điện bị gãy, nhơn lúc lộn xộn ấy, Tân Khánh Kỵ giải cứu Chu Vân. Sau đó Thành đế biết Chu Vân xin giết Trương Vũ là vì lòng trung, bèn tha tội.

Khi sửa cung điện, Thành đế lệnh phải giữ nguyên dạng phần cột bị gãy, lấy hình ảnh đó mà biểu dương lời nói ngay thẳng của Chu Vân. Đời sau thường dùng từ “chiết hạm – bẻ cột” để chỉ hành vi dũng cảm trong việc dùng lời lẽ để can gián vua. Thôi Đồ trong bài thơ Ký cữu(gởi cậu) có câu “trí quân kỳ chiết hạm” (hết lòng vì vua mà bẻ gãy cột).

Chữ “Thương” ở cuối câu thứ năm (được lặp lại nhiều lần trong lời ca) có thể đọc là “trường” hay “tràng” mà Nguyễn Bá Trác đổi thành “Hồ trường”, từ một chữ “thương” biến thành hai chữ “hồ trường” rồi thành hẳn tên bài ca, kể cũng kỳ thú!

Thương có ba nghĩa:

1. Là cái chén uống rượu giống như cái tước, làm bằng sừng, “thương” là chén rót đầy rượu, khi chưa rót rượu vào thì gọi là “chí”;

2. Mời rượu người khác một cách kính trọng gọi là “thương”. Sách Lã Thị Xuân Thu – thiên Đạt Úc có câu “Quản tử thương Hoàn Công” (Quản Từ kính cẩn mời rượu Tề Hoàn Công).

3. Tự uống rượu một mình gọi là “thương”, Phạm Thành Đại trong bài “Túc tư khẩu thỉ văn nhạn” có câu “bá tửu bất năng thương” (nâng ly khó uống một mình).

Khi dịch nghĩa NPCK, chúng tôi dùng nghĩa “thương là chén rượu đầy”. Còn từ “hồ trường” trong lời ca Hồ trường là sự sáng tạo của dịch giả Nguyễn Bá Trác, chúng tôi không dám lạm bàn.

Chữ “phần tử” mà chúng ta thấy ở cuối bài NPCK là một từ chỉ quê hương (mà dịch giả Hồ trường đổi thành “cỏ cây”). Phần và tử là tên hai loại cây. Cây phần là một loại Du trắng nên còn gọi là “Phần du”.

Trong Hán thư - Giao tự chí, quyển thượng có ghi lại rằng: “Trong buổi lễ tế Giao, Hán Cao tổ có khấn mình là người ấp Phong, làng Phần du (làng có trồng cây phần du làm đặc trưng, sau thành tên làng), người đời sau lấy chữ Phần du để chí cố hương. Cây Tử tức là cây Thị, gỗ dùng để đóng đàn, khắc bản in…

Quê cha đất tổ gọi là “tử lý” hay “tang tử”. Kinh thi có câu “duy tang dữ tử, tất cung kính chi” (cây do cha mẹ trồng, ắt phải cung kính vậy); Phạm Thành Đại có câu “thân tu tử lý cung” (cung kính quê nhà mà lo tu sửa thân); truyện Kiều có câu “có khi gốc tử đã vừa người ôm”. “Phần tử” là từ được ghép bởi “Phần du” và “Tử lý” (hoặc “Tang tử”). Nguyễn Du viết: “Đoái thương muôn dặm tử phần; hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa” (Kiều).

Các chú thích vừa nêu có thể là dài dòng nhưng qua đó, phần nào bạn đọc có thể thấy những điểm khác biệt giữa NPCK và Hồ Trường, đồng thời có thể xác định bản Hồ trườngnào đã theo đúng bản gốc.

III. Lời ca Hồ trường

Nguyên bản trích từ Nam Phong tạp chí số 41 năm 1920. Trang 400 – 401 (giữ nguyên các lỗi sai so với chính tả ngày nay)

1. Trượng phu không hay sé gan bẻ cột phù cương thường;
2. Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương
3. Trời nam nghìn dậm thẳm, mây nước một mầu sương
4. Học không thành, danh chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thể bóng tà dương.
5. Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
6. Hồ trường! Hồ trường! ta biết rót về đâu?
7. Rót về đông phương, nước bể đông chẩy xiết sinh cuồng lạn;
8. Rót về tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan
9. Rót về bắc phương, ngọn bắc phong vì vụt, đá chạy cát dương;
10. Rót về nam phương, trời nam mù mịt, có người quá chén, như điên như cuồng
11. Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, lòng ta hay
12. Nam nhi sự ngiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.

Qua lời ca Hồ trường này, chúng ta thấy các bản in lại có nhiều chỗ khác biệt. Các điểm sai lệch quan trọng có thể kể:

Ở câu 1: có vài bản in là bẻ cật (có lẽ do liện hệ gan - cật nên thành xé gan bẻ cật thay vì bẻ cột). Ở câu 2: nhầm thành tha phương (nguyên bản là “tha hương”).

Ở câu 4: hầu hết các bản in lại đều là “thân thế” (nguyên bản là “thân thể”), tuy nhiên, ở đây có lẽ bản gốc Nam Phong sai vì trong NPCK chữ Hán dùng chữ “thân thế”.

Ở câu 5 có vài bản in “vỗ gươm mà hát” (thay vì “vỗ tay”) và tiếp đó là “nghiêng bầu mà hỏi” (thay vì “nghiêng đầu”). Ở câu 9 hầu hết các bản đều in “ngọn bắc phong vi vút” (thay vì “vì vụt”)…

Như đã nói, bài viết này chỉ dựa vào bản Hạn mạn du ký in lần đầu trên Nam Phong, người viết chưa được đọc bản in thành sách sau đó, cũng có khả năng tác giả HMDK có điều chỉnh đôi chỗ về ý hoặc về lỗi kỹ thuật, đồng thời bản dịch NPCK của chúng tôi nếu có lầm lẫn, xin bạn đọc điều chỉnh giúp cho.

Bến Nghé - tháng 8 năm Ất Dậu

PHẠM HOÀNG QUÂN

Chú thích:

(1) Các bản được biết gồm: 1. Trong tập Hạn mạn du ký - Đông Kinh ấn quán - Hà Nội 1921 (tác giả in lại). 2. Phạm Thế Ngũ - Việt Nam văn học sử giản ước tân biên - Quốc học tùng thư - Sài Gòn - 1965 (bài ca Hồ trường in ở trang 327 - tập 3). 3. Lãng Nhân - Chơi chữ - Nam Chi tùng thư - Sài Gòn - 1960 (in lời ca Hồ Trường theo một giai thoại, trang 94). 4. Đông Trình - (bài báo) - TS chủ nhật ngày 7-6-1998. 5. Vương Trùng Dương - Nguyễn Bá Trác và bài thơ Hồ Trường - võng trạm www.xuquang.com - in lại bản của cháu ngoại tác giả công bố.

(2) Phương nam ở đây chỉ miền Lãnh Nam - Trung Quốc

(3) Người sau gọi Hồ Trường là trích lấy chữ trong lời ca mà gọi chứ không phải tựa đề do tác giả Hạn Mạn du ký đặt ra.

(4) Chữ KỶ này ở nguyên bản hán văn in nhầm là chữ DĨ

(5) Các chú thích ở phần dịch nghĩa Nam phương ca khúc được tổng hợp từ các sách Từ Hải, Từ Nguyên, Cổ Hán ngữ từ điển, Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển.