Chuyện Đời Của Điệp |
Tác Giả: Nguyễn Hữu Thời |
Thứ Năm, 15 Tháng 4 Năm 2010 13:16 |
Trước năm 1975, ông là nhà giáo, quân nhân QLVNCH (khóa 18 Thủ Đức). Định cu tại Mỹ, sau nhiều năm làm việc cho Sypris Data System Los Angeles, ông chỉ mới hưu trí cuối 2009. Sau đây là bài viết của ông nhân kỷ niệm 35 năm Tháng Tư 1975. Đó là những ngày của tháng Tư năm 1975. Cộng quân đã tiến gần đến cổng ngõ Sài gòn. Sấm chồng nàng vì quân vụ khẩn cấp ở Lộc ninh nên cả tháng nay không có tin về. Một mình xoay xở, lo lắng cho ba con và mẹ chồng, thằng út mới vừa đầy năm, bà Cả mẹ chồng nàng, tuy tuổi mới sáu mươi nhưng đau ốm rề rề suốt cả năm, tháng. Tin chồng biền biệt. Tâm cang nàng như lửa đốt, bối rối, đứng ngồi không yên. Tám giờ sáng ngày 28 tháng Tư, hoả tiển 122 của Cộng quân pháo vào Sài gòn, đạn rơi trúng trường trung học Gia Long, bến xe Nguyễn Cư Trinh làm chết và bị thương nhiều thường dân vô tội cư ngụ quanh vùng. Nhà cửa đổ nát, phố xá tan hoang. Ngoài đường, xe cộ chạy ngược xuôi, người người hối hả, hốt hoảng lạc thần. Có tiếng xe gắn máy ngừng trước cửa nhà. Nhìn qua cửa sổ, Điệp nhận ra ngay Hà, người bạn nối khố hồi hai chị em cùng học ở trường Gia Long, giờ đây mỗi người mỗi cảnh; nhưng vẫn còn qua lại chuyện trò thân nhau, khắn khít như hồi còn cắp sách đến trường. Chồng Hà cũng là quân nhân nhưng ở đơn vị hải quân, và là bạn của Sấm, chồng nàng. Hà vội khóa xe, hối hả bước vào nhà, nét mặt hốt hoảng: Đêm 29, giặc Cộng pháo kích vào phi trường Tân Sơn Nhất gây ra những đám cháy lớn. Trong phi trường, cạnh cơ quan DAO, một số lớn đồng bào đa phần là những người làm việc cho các cơ quan Mỹ đang ngồi thấp thổm, chờ đợi máy bay trực thăng từ hạm đội Mỹ vào bốc ra ngoài khơi Vũng tàu. Mặc đạn pháo của Cộng quân, các máy bay trực thăng vẫn tiếp tục bay vào bốc hết những thường dân và những người Mỹ còn kẹt lại trong phi trường, cạnh cơ quan DAO, và những điểm đã được chọn trước rãi rác quanh Sài gòn. Các đơn vị bộ binh chận cuộc tiến quân của giặc Cộng trên cầu xa lộ, cửa ngỏ vào Sài gòn. Trận đánh hào hùng, dũng mãnh của chiến sĩ QLVNCH ngay trên cầu xa lộ. Dân chúng từ Thủ đức và các vùng lân cận chạy giặc Cộng; vượt qua cầu bị đạn Cộng quân bắn chết, trọng thương nằm dọc theo hai lề cầu. Chiến sĩ VNCH vừa tãi thương, vừa chống giặc. Cảnh tượng vừa anh hùng, vừa bi thảm! Các phóng viên chiến trường VNCH và Tây phương đã ghi lại được những hình ảnh trên, và thỉnh thoảng giờ họ chiếu đi, chiếu lại trên truyền hình thế giới. Trận chiến kéo dài mãi đến 10 giờ sáng 30 tháng Tư, khi toàn quân nghe lệnh đầu hàng của Tổng thống 36 giờ VNCH Dương văn Minh, các đơn vị QLVNCH mới chịu buông súng. Tuy vậy, có một số chiến sĩ đã tự sát, một số không tuân lệnh đầu hàng và âm thầm rút đi. Sài gòn tả tơi. Ngổn ngang xác người và xe cộ, súng ống, áo quần nhà binh. Xe tăng Cộng sản lầm lũi chạy trên đường phố Sài gòn, tìm lối đến dinh Độc lập! Cuối cùng, mấy ngày sau, vợ chồng Điệp Sấm và con cái, vợ chồng Hà Tiến được gặp nhau, đoàn tụ trong lo âu, ngại ngùng. Vợ chồng Hà chưa con cái. Vợ chồng Điệp Sấm đã ba con. Tin theo lời Ủy Ban Quân Quản Cộng sản loan báo ra rã trên đài phát thanh là các Sĩ quan chế độ cũ đem tiền gạo đi học tập một tháng. Điệp và Hà thúc đẩy chồng mình đi trình diện gấp để về còn lo liệu làm ăn, sinh sống. Họ đi rồi, hai bà vợ ở nhà buôn thúng, bán bưng, lo tìm sinh kế cho gia đình, và thường xuyên liên lạc giúp đỡ lẫn nhau. Tình thân họ đậm đà còn hơn ruột thịt. Năm 1980, Sấm được tha về nhưng chồng Hà vẫn còn trong trại cải tạo ở tận miền Bắc. Hà nhanh nhẹn, nhậm lẹ, không con cái ràng buộc, quen biết nhiều, giao thiệp rộng. Trong một dịp tình cờ, nàng gặp lại người hạ sĩ quan cũ cùng đơn vị với chồng, người Việt gốc Hoa, mai mối cho Hà đóng vàng vượt biên. Hà đến bàn chuyện nầy với vợ chồng Điệp, và rủ thu xếp để cùng đi. Đó là dịp may hiếm có để gia đình Điệp thoát cảnh sống quá nghiệt ngã, đau khổ, bị chèn ép, bị theo dõi dưới sự cai trị rừng rú, mạnh được, yếu thua, không còn tình nghĩa của Cộng sản Việtnam. Nhưng tìm đâu ra đủ số vàng mà Hà nói để toàn gia đình Điệp được ra đi. Cuối cùng, Điệp về quê nhờ Mẹ mình giúp đỡ. Mẹ nàng chạy đi vay mượn nhưng chỉ lo được một chỗ thôi. Trên đường trở lại Sài gòn, Điệp bâng khuâng, nghĩ ngợi lung lắm, về nhà Điệp bàn lại với chồng, và gợi ý để Sầm được thoát đi trước. Nhưng Sầm nói: Điệp im lặng và thầm cảm phục chồng mình; thà chịu cùng ở lại, chia xẽ gian khổ với vợ con, không bỏ đi thoát thân lấy một mình. Hôm sau gặp Hà như đã hẹn. Điệp đem tình trạng gia đình mình trình bày. Một thoáng suy nghĩ, Hà nói: Điệp rất tin tưởng lời bạn. Từ trước, lời nói của Hà, lời hứa của bạ thân với Điệp như đinh đóng cột, chưa bao giờ Hà thất hứa. Thân nhau từ thuở nhỏ; nên Điệp không chút đắn đo, giao chồng cho bạn giúp đỡ vượt biên; lại còn thúc đẩy chồng mình thu xếp gấp để đi với gia đình bạn. Đêm từ giã, vợ chồng, cha con bịn rịn như không muốn rời nhau. Nhưng vì tương lai, và hy vọng môt ngày mai tươi sáng hơn, Điệp nuốt trọn sự đau đớn, chia lìa trong tâm khảm để Sấm yên lòng ra đi. Sấm Hà thoát được tới đảo Paulo Bidong, và sau nhiều tháng ở đảo, họ được định cư ở New York. Khi phái đoàn Mỹ phỏng vấn, Hà Sấm ghép chung vào danh sách như hai vợ chồng son. Đến năm 1986, có người cho Điệp biết chắc chắn chồng mình và bạn đã kết hôn và đã có con với nhau. Họ quên đi những lời đã ườc hẹn! Điệp âm thầm đau khổ, và thỉnh thoảng ra thăm nuôi Tiến như đã hứa; nhưng tuyệt nhiên không kể chuyện Hà Sấm đã thành vợ chồng cho Tiến nghe. Tiến ra trại tù mới biết vợ mình đã trở thành vợ bạn mình. Do sự giới thiệu, móc nối của người hạ sĩ quan cũ. Tiến được gia đình người chủ tàu Việt gốc Hoa; chuẩn bị vượt biên nhưng thiếu tài công. Họ mượn Tiến làm tài công, và đồng ý để Tiến và gia đình cùng đi khỏi đóng tiền. Tiến không còn thân nhân nào nữa ở Việtnam, chàng liền nghĩ ngay đến công ơn Điệp; nên mời cả gia đình Điệp cùng đi. Họ đến được Hoa kỳ và Tiến lập gia đình với người con gái chủ tàu. Gia đình Điệp được một nhà thờ Tin Lành bảo lãnh về tiểu bang Maine, Điệp tiếp tục sống với mẹ chồng và ba con. Ở đó được hai năm, chịu lạnh không nỗi, cả gia đình dời về Jacksonville, tiểu bang Florida, và nàng thi đậu vào làm công chức cho tiểu bang. Hồi học ở trung học Gia long, sinh ngữ chính của Điệp là Anh văn. Điệp đổ Tú tài hai ban C, hạng Bình, nàng thi đậu vào Học viện Quốc gia hành chánh; nhưng vì tình yêu thuở ban đầu với Sấm. Nàng lập gia đinh với chàng, nên chuyện làm bà Phó đốc sự hành chánh, nàng đành bỏ dở. Nhờ có nền nếp học hành cũ, Điệp không khó khăn lắm trong việc thích ứng với đời sống mới tại Mỹ. Một vài lần có người nhắc đến Sấm nhưng nàng chỉ lặng lẽ nghe, rồi thôi, không nghĩ tới việc tìm gặp Sấm. Điệp tiếp tục phụng dưỡng mẹ chồng, coi bà như mẹ đẻ, trong khi Sấm vẫn biệt tăm. Và rồi bây giờ bà ra đi, không được thấy lại người con trai vào phút cuối đời. Điệp là hình ảnh của người đàn bà Việt nam đã làm tròn trách nhiệm và bổn phận của người mẹ, người vợ, người con dâu, người bạn tốt, cả trong thời chiến lẫn thời bình. Nàng đã gắn bó, cột chặt đời mình vào cuộc sống hiện hữu dù gặp bao gian khổ, thiếu thốn. Nàng đã quên đi những hạnh phúc riêng tư, đôi lứa, những dục vọng tầm thường của con người mà chỉ nghĩ đến hạnh phúc của chồng con, bè bạn thân thuộc. |