Chuyện Chử Ðồng Tử Với Nàng Tiên Dung |
Tác Giả: Xuân Vũ TRẦN ÐÌNH NGỌC | |||
Chúa Nhật, 15 Tháng 7 Năm 2012 06:15 | |||
Ở đây, Nhà Văn Trần Đình Ngọc muốn nhắc lại một câu chuyện tình vô cùng đẹp, một chuyện thần tiên, với một chút hư cấu do trí tưởng tượng cho cuộc tình tiên-tục thêm đậm đà khởi sắc. Đó là chuyện Chử Ðồng Tử, một thanh niên nghèo nàn đến không có quần áo mặc lại được sánh duyên với Công chúa - lúc đó gọi là Mị nương - Tiên Dung, con gái yêu của vua Hùng Vương thứ ba. Câu chuyện này cũng cho ta một khái niệm, không nhất thiết :”Con vua thì lại làm vua, Con bác sãi chùa phải quét lá đa” mà trái lại, nếu có đức, có tài - nhất là đức - thì người bần dân ở giai cấp thấp nhất trong xã hội cũng được vươn lên, được sánh ngang với công chúa là giai cấp cao nhất trong xã hội thời đó, một quan niệm xã hội rất tiến bộ trong lịch sử loài người nhất là ở thời kỳ hồng hoang. Mời bạn đọc cùng tác giả đi vào chuyện. CHỬ ĐỒNG TỬ VỚI CÔNG CHÚA TIÊN DUNG (Phóng tác từ dã sử Việt Nam) 1. Đời vua Hùng Vương thứ 3, ở khu chợ Bài, làng Chử xá, huyện Phong Châu có một cặp vợ chồng, tên người chồng là Chử Phù Vân. Hai ông bà Chử Phù Vân chỉ sinh hạ được một cậu con trai, cưng quí lắm, đặt tên là Chử Đồng Tử. Trước kia Chử ông đi bắt tôm bắt cá cũng đủ ăn; nhờ làng xóm mỗi người một tay phụ giúp, ông bà làm được ngôi nhà ba gian hai chái bằng gỗ soan ở khu chợ Bài, có sân đất nện phía trước, vườn rau nhỏ phía sau và cái cổng tre chống lên ban ngày, ban đêm hạ xuống ngăn ngừa thú vật vào sân. Bà Vân buôn rau buôn cải phụ giúp chồng, gia đình tuy chẳng gọi là giầu có nhưng cũng mát mặt, đủ ăn, đầm ấm. Một bữa ông Chử đi đánh giậm, bà vợ đem con - lúc đó mới có mười tháng - gửi cho người em họ ở xóm Tây rồi ra chợ bán hàng. Chẳng hiểu gió thổi bay tàn lửa hay sao mà lửa trong bếp bốc lên, cháy lan qua chuồng rơm rạ dùng đun bếp ở cạnh, ngọn lửa bốc cao thiêu rụi căn nhà xinh xắn của gia đình ông bà. Khi người ta tri hô lên và đi gọi được ông bà Chử về thì cả cái nhà chỉ còn là một đống than hồng. Hàng xóm đến an ủi ông bà Chử nhưng họ cũng nghèo chỉ giúp được vài đấu gạo, mớ rau qua bữa; hai ông bà Chử phải bồng con ra bãi biển dựng tạm một túp lều làm chỗ che mưa, trú nắng. Ít lâu sau, bà Chử lên cơn bệnh và từ trần trong căn lều tồi tàn này. Vợ qua đời, Chử ông gà trống nuôi con lúc con mới được hơn năm, gia tư có chút gì thì đã cháy rụi theo thần hỏa, ông rất vất vả cơ cực nhưng vẫn cắn răng chịu đựng không hề than trời trách đất. Chử Đồng Tử lớn lên trong tình yêu thương của cha, lúc mười hai tuổi đã có thể theo cha đi bẫy chim, đánh cá làm kế độ nhật. Rồi càng lớn, anh càng trở nên một trang thanh niên khôi ngô, tuấn tú, tư cách hơn người. Anh có đôi mắt trong sáng với tia nhìn thẳng thắn, thân hình nẩy nở, vạm vỡ vì anh thường đến học võ với võ sư họ Chu ở xóm Đông làng Thượng kế bên. Nhưng cái quan trọng nhất trong con người anh Chử Đồng Tử là tính tình cương trực, ngay thẳng của anh. Anh cũng có lòng nhân hậu hay giúp đỡ mọi người nhất là những người đang cơn họan nạn. Một điểm đặc biệt khác là anh rất có hiếu với cha mẹ. Mẹ anh không còn nhưng anh tuyệt đối vâng lời và kính yêu bố. Nghèo, thanh đạm nhưng trong sạch còn hơn là giầu mà trọc phú, đê tiện, anh thường nghĩ vậy. Trước kia hai bố con ông Chử mỗi người có một cái khố để che thân, đi chợ đi búa. Thực sự hồi đó nước Việt Nam ta cũng còn nhiều người nghèo, đóng khố quanh năm. Vả lại đóng khố cũng là một cách ăn mặc ở thời đó, không ai dị nghị người đàn ông tứ thời bát tiết đóng khố, ngọai trừ những lễ hội cần phải ăn mặc trang trọng hơn. Chỉ cách nay khoảng hơn trăm năm, nghĩa là vào khoảng đầu thê kỷ thứ 20 (thời Pháp thuộc)nhiều dân quê vẫn đóng khố thay vì mặc những quần áo như hiện nay. Rồi một bữa nọ. Nào có cái vụ: “Yêu nhau cởi khố cho nhau” như ở thế kỉ 21 này trai gái vẫn thường làm, chẳng biết phơi phóng sau khi giặt giũ ra sao mà anh Chử Ðồng Tử mất cái khố duy nhất: ”Về nhà bố hỏi qua cầu khố bay.” Thế có chết người không kia chứ? Nhưng ông Chử Phù Vân, đúng là từ phụ, người cha nhân từ một lòng thương con, không phàn nàn nửa lời. Giá như bây giờ, dân làng, dân phố sẽ làm một cái kiệu hoa như cái kiệu của hai vua Trưng Trắc và Trưng Nhị mỗi năm, khiêng ông đi diễu phố để tôn vinh ông vào ngày từ phụ, vì chẳng những ông không cằn nhằn Ðồng Tử một câu, mà còn an ủi: “Thôi con ạ, gió bay mất thì thôi. Của đi thay người. Hoặc giả có người nào túng nhỡ nhặt được thì để cho họ mặc, mình lấy phước. Mai mốt kiếm được mớ tôm, mớ cá bán mua lại mấy hồi.” Bố không la, lại an ủi, Ðồng Tử rất mừng. Nhưng mừng chưa được nửa ngày thì cái sầu lại tới. Cứ tồng ngồng thế này thì còn ra cái thể thống gì? Con trai hai chục tuổi rồi chứ bé dại sao, nằm chết dí trong xó lều mãi à ? Vô kế khả thi. Khổng Minh Gia Cát, Trang Trình, Trạng Bùng... lại không có đó cho mà vấn kế (có sao được, các ông này chưa thành hạt bụi). Ông Chử Phù Vân thấy con cứ nằm úp bụng xuống cát, mới đầu không nghĩ ra, ông nghĩ thằng con tiếc của, vài ngày là khuây. Nào ngờ con ông cứ nằm miết. Ông bố khá thông minh nên chợt nghĩ ra, thôi rồi, có một cái khố mà mình cứ “diện” hoài, thằng con lấy gì đi đây đi đó? Bèn âu yếm bảo con: “Này con, lấy khố của bố mà đóng khi cần ra ngoài. Từ nay, hễ con cần khố thì con cứ lấy, bố nằm nhà và ngược lại. Con hiểu không ?” Dĩ nhiên, cậu con hiểu ngay: Cá tôm thực ra bắt được cũng nhiều mà giá quá rẻ vì gia đình nào cũng có người đi mò giậm, quăng lưới. Khác hẳn thời nay, thời đó tôm cá đông đặc dưới sông, dưới ao hồ nhưng dân chài lưới lại khổ vì cái nạn thủy quái như thuồng luồng, giải, bạch tuộc, ba ba khổng lồ, cá sấu... Ðã không ít người bị hại vì thủy quái ăn thịt. Chính Chử đồng tử đã hai lần: một lần vật lộn với một con sấu dài hơn gian nhà, một lần ở dưới sông với một con thuồng luồng mười sáu cánh tay như loài bạch tuộc dưới biển. Anh Chử chỉ có con dao đá và phải chiến đấu đến gần kiệt lực mới thoát thân được không thì đã bị hại với hai con ác thú này rồi. Người Việt lúc đó vẫn nhỏ con so với người da trắng nhưng khoẻ hơn bây giờ. Tay vo vật cọp, beo là thường vì đàn ông thường luyện tập võ nghệ tinh thông để giữ nhà, giữ nước. Nhưng thủy quái rất tinh khôn, chúng chỉ lừa lúc người sơ ý không đề phòng mà tấn công nên vua Hùng vương bèn ra lệnh cho nhân dân xâm mình (chính là tattoo ngày nay) cho giống với hình thù thủy quái. Chúng tưởng đồng loại nên không tấn công. Từ đó nạn thủy quái bớt dần. Khi Chử Ðồng Tử trên hai mươi tuổi, một bữa ông Chử Phù Vân bảo con: “Con người, ai cũng vậy, hễ đến tuổi trưởng thành thì phải lấy vợ, lấy chồng để nối dõi tông đường, sinh con đẻ cháu. Đó là cái luật tự nhiên của Tạo hóa. Bố thấy con đã thành nhân mà vẫn chưa thành gia thất, chưa có gia đình riêng của con, bố buồn lắm! Vậy con thử coi quanh vùng xem có con bé nào coi được được mà tính tình ngoan ngoãn dễ thương thì cho bố hay rồi bố đi hỏi cho con.” Chử Ðồng tử nghe bố đề nghị chuyện lấy vợ thì ngượng ngùng, cứ tần ngần ngồi nhìn dải mây trắng trong khung cửa lều trên bầu trời xanh thẫm. Chử ông lại tiếp: “Ngày xưa, bằng tuổi con, bố cũng được ông nội con đi hỏi mẹ con cho bố. Nếu ông nội không xăng xái thì có lẽ giờ này cũng chưa có con. Bà ấy còn sống thì mày cũng có một lũ em trai, em gái rồi. Nhưng sinh mày được hơn một năm, bà ấy bị hậu sản vì đi mò cua bắt ốc sớm quá, tối về lều lại trống hốc trống hác, gió heo may mùa Ðông lùa vào cả ngày cả đêm mà bận việc lo kiếm cái ăn, bố chưa kịp bỏ giờ ra sửa chữa lại. Căn nhà ba gian gần khu chợ Bài thì trước đó đã bị thiêu rụi nên bố với mẹ con phải ra đây dựng tạm cái lều này. Một bữa, tao không thể quên được bữa đau khổ đó. Tao đi mò giậm, lúc về thì bà ấy đã tắt thở nằm trong cái ổ rơm này mà mày thì đang nhay hai cái vú đã hết sữa của bà ấy. Tao đau đớn, khổ sở vô cùng, khóc hết nước mắt, nhưng cũng phải ráng tìm nơi an táng mồ cao mả đẹp cho bà ấy. Rồi từ đó, gà trống nuôi con, bố đã phải bế mày đi bú rình, bú chực bà tư Gấm và chị Miền ở khu chợ Bài nhiều lần, sau đó mày hơi lớn, nhai tôm nhai tép với cơm ra đút, mãi năm lên bốn, mày mới biết ăn cơm một mình, bố mới đỡ cực. Thực là nhọc nhằn! Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ. Tao lại càng nhớ ơn ông bà nội mày đã sinh và nuôi nấng tao nên người.” Chử Ðồng tử nghe bố nói lòng buồn buồn. Thực lòng, anh chẳng muốn nghĩ đến chuyện vợ con. Kiếm đâu ra cô thôn nữ vào tuổi cập kê, được được người, lại ngoan ngoan nết? Người ta giầu có, ruộng sâu trâu nái thì chưa mở miệng, gia đình nhà gái đã ưng thuận vì người ta “trông giỏ bỏ thóc”. Mình nghèo đến cái khố phải chia thời gian với bố thì ai thèm. Nếu có ngon thì cô nhỏ Trinh con ông bà Hàng đó. Coi bộ Trinh cũng có cảm tình với mình và thường khen mình có tấm thân cân đối, rắn chắc, khoẻ mạnh với khuôn mặt chữ điền vuông trượng, sau này làm nên và tính tình ngay thẳng đàng hòang. Nhưng con gái nào chẳng ham tiền, thời nào cũng vậy. Hai bố con chỉ có độc một cái khố thì quá khó! Anh Chử Đồng Tử vẫn lan man nghĩ. Phải chi thời đó đã có một nhà thơ Nguyễn Bính, chắc anh Chử Đồng Tử đã ngâm nga: Con tằm được mấy tiền tơ Chao ơi mà ước mà mơ lấy nàng! và hai câu: Nếu không có giậu mồng tơi Chắc là tôi đã sang chơi nhà nàng sẽ được đổi là: Mình ên một khố khơi khơi Chắc là tôi đã sang chơi nhà nàng!
Chuyện Chử ông đề nghị anh Chử kiếm vợ chưa đi tới đâu thì khoảng sáu tháng sau, một bữa mưa to gió lớn, lều dột lung tung, ông Chử Phù Vân ngã bệnh. Trải qua ba ngày đêm mưa gió, chỉ cầm hơi bằng mấy con cá con tôm mới đánh được, hai bố con ông Chử thật khổ sở, thảm não. Người ta có tiền thì vài thang thuốc Nam trong chợ, mấy bát cháo hành thật nóng, nồi nước xông cho đổ mồ hôi cũng khỏi. Nhưng nghèo quá, ông bố nằm liệt ổ, anh con không cựa quậy vào đâu được. Cho đến một đêm không trăng sao, Chử ông trút hơi thở cuối cùng trên tay người con trai yêu quí. Trước đó, khi biết bố khó qua khỏi, anh Chử Đồng Tử ghé vào tai bố: “Thưa bố, bố có điều gì trối bảo, dặn dò con không?” Người cha đưa đôi mắt đã lạc thần nhìn con với vẻ vô cùng âu yếm. Ông nở một nụ cười gượng gạo: “Bố chỉ có hai điều dặn con. Một là sau khi bố chết hai năm, chứ đừng chờ ba năm, con liệu lấy một người vợ để làm bạn với con cho bớt buồn và cô đơn. Sống mình ên như thế này vò võ buồn khổ lắm. Mà khi trái gió trở trời không ai phụ giúp, đêm bị cơn gió độc chết trong lều không ai biết. Hơn nữa, người vợ con sẽ cho con mấy đứa con - nhất là con trai - để nối dõi tông đường họ Chử chứ. Bố mong điều đó lắm. Hai là khi chôn cất bố, con lấy cái khố ra, đừng chôn theo bố kẻo uổng đi. Con đang không có cái mặc, hãy lấy ra mà mặc. Chết rồi thì có khố hay không có khố không thành vấn đề. Nghe con!” Anh Chử gật đầu khóc với bố: “Dạ, thưa bố. Con sẽ theo đúng lời bố dạy. Nhưng bố ơi, bố nỡ bỏ con một mình trên cõi đời này sao? Bố mất đi con còn ai mà sớm tối phụng dưỡng, hầu hạ, chuyện trò? Dù nhà mình chẳng có bát ăn bát để nhưng bắt được con tôm, con cá nào to, ngon, con cũng để dành kho, nấu mời bố xơi. Con chỉ mong bố khoẻ mạnh và sống mãi với con thôi bố ạ! Con không cần một sự gì khác.” Người cha nhìn vào mắt con, cười như mếu: “Sinh lão bệnh tử là lẽ thường con à. Ai rồi cũng đến lúc phải chết, phải từ giã cõi đời. Mẹ con mất rồi, bố còn có con. Bố mất trên tay con như thế này là bố mãn nguyện lắm.” Chử ông nói một hơi mệt quá, nằm thở dốc. Hạ cơn mệt, ông tiếp: “Trước đây đã có lần bố vật lộn với một con giải khổng lồ ở khúc sông làng Thượng, bố đã tưởng phải bỏ mạng với nó. Chết vậy thì uổng lắm. Chứ được chuyện trò, trối trăng với con rồi chết, bố thật vui lòng. Con nhớ phải đi kiếm lấy một người con gái. Dễ thương như con Trinh nhà ông bà Hàng thì bố ưng lắm, chết bố an lòng nhắm mắt...” Ðến lúc hơi thở gần tàn rồi mà Chử ông vẫn còn nghĩ đến tương lai của con, nghĩ đến người vợ đầu ấp tay gối của con, vẫn còn nhắm cô con gái chanh cốm thông minh nhất, xinh xắn nhất, được người được nết ở khu chợ Bài cho con bởi ông nghĩ, người vợ là điều hệ trọng nhất. đáng phải lưu tâm nhất trong cuộc đời mỗi người đàn ông. 2. Thời gian trôi khoảng vài năm. Tình yêu của Trinh đối với Chử Đồng Tử càng ngày càng mặn mà thêm. Chử Ðồng tử cũng thương thầm nhớ trộm Trinh lắm nhưng anh chẳng biết phải làm sao. Phần thương bố, anh không muốn vui vầy duyên mới trong kì hạn ba năm để tang; phần nghèo, cái nghèo trường kì không sao thoát ra được mà anh đành lòng cứ để ngày tháng trôi đi như bóng câu qua sổ mặc dù ông bà Hàng có lần nói bóng nói gió cho anh hiểu là ông bà và Trinh rất thương mến anh, nếu anh nhờ được người có vai vế cha chú hoặc cô dì đến nói thì ắt việc hôn nhân sẽ thành tựu. Một hôm, đang đứng nhìn trời, biển, mây, nước ở một bãi biển cách xa lều, Chử Đồng Tử bỗng thấy một đoàn thuyền ba chiếc từ xa đi tới. Thuyền biển rất lớn, trang trí rất đẹp và đi khá nhanh vì những chiếc buồm căng gió. Chiếc đi giữa có tiếng đàn sáo vang lừng. Trên boong thuyền, một đoàn thể nữ vài chục người áo trắng, váy lụa xanh, vừa múa, vừa hát rất nhịp nhàng, tiếng hát của họ theo gió vọng tới nơi anh đang đứng. Vì chưa bao giờ được ngắm nhìn cảnh tượng lộng lẫy huy hòang như thế, Chử Đồng Tử cứ đứng ngây người nhìn, âm thanh trầm bổng du dương của nhạc khí càng làm anh quên thực tại. Ðến khi chợt nhớ ra mình chẳng có gì ngoài một sợi dây chuối buộc trên người, anh vội tìm cách ẩn trốn, không phải vì sợ hãi vua quan nhưng vì mắc cở với thân thể trần trụi của mình. Nhìn quanh chẳng có một bụi rậm, chỉ thấy độc một cái hố vừa người ngồi lọt, chắc do bọn trẻ ra biển chơi đào cát mấy bữa trước. Cát đào lên còn vun đống ngay miệng hố cùng với một đám rong biển mầu vàng óng như tơ do thủy triều đưa lên. Thế là anh vội vàng chạy tới, ngồi lọt thỏm dưới hố, vì chẳng còn cách nào khác. Anh lấy tay cào cát và mớ rong biển cho phủ cả đầu chỉ để chừa cái mũi để thở và hai con mắt, lúc cần có thể hé nhìn những gì xẩy ra xung quanh. Chẳng bao lâu ba chiếc thuyền đến ngay nơi đó, rồi đậu lại, bỏ neo. Người trên thuyèn bắc cầu cho binh lính và đám vũ nữ vừa nãy khiêng một chiếc kiệu hoa trang trí rất đẹp trên có một người ngồi. Đó là một thiếu nữ mặt hoa da phấn, dáng dấp xinh tươi, ăn mặc sang trọng, ra vẻ một công nương con nhà quyền quí. Hai tay nàng đeo hai chiếc vòng ngọc quí mầu xanh lá cây, hai tai cũng đeo hai chiếc vòng nhỏ chỉ bằng một phần mười vòng đeo tay, nhưng cùng một thứ ngọc và cùng mầu. Đôi hài thêu ở chân cũng nạm ngọc và kim cương sáng lóng lánh. Cái váy lụa mầu xanh đậm nàng mặc từ khoảng thắt đáy lưng ong thả xuống trên mắt cá, vừa để lộ đôi giầy đẹp, mỗi bước chân khoan thai của nàng hằn lên cặp đùi dài, khoẻ mạnh. Chiếc lưng ong được che chở bằng cái áo lụa xanh nhạt bên trong, đồng mầu váy, bên ngoài là chiếc áo khoác mầu đen tuyền trên đính nhiều hạt ngọc, mã não và kim cương nhỏ chiếu lóng lánh. Mái tóc đen huyền, với cái trâm ngọc cài trên, thả xuống khỏi bờ vai tròn nhỏ, cân đối, nổi bật lên cái cổ cao thanh tú và khuôn mặt trái soan trắng ngần với đôi mắt trong sáng, hàng mi cong, đôi lông mày hình bán nguyệt, chiếc mũi thẳng và đôi môi tươi hồng. Một nữ lưu trẻ trung sang trọng, đài các, xinh đẹp như vậy người ta hiếm thấy ở khắp mấy vùng quanh huyện Phong Châu này. Thiếu nữ xuống khỏi kiệu hoa, ra đứng cạnh một mỏm đá nhìn trời, nhìn biển, nhìn những con hải âu bay lượn. Một lát, thể nữ dâng thức uống, xong nàng cùng bốn thể nữ đi dạo quanh bờ biển. Trong hố cát, Chử Đồng Tử hé mắt nhìn không sót một hành động nào của công nương và đám thể nữ. Anh chỉ mong cho thuyền bè của nàng rời đi sớm để anh về lều nhưng coi bộ binh lính sửa soạn căng lều vải trên bãi, dựng rạp thì có lẽ họ sẽ ở qua đêm chăng? Chử Đồng Tử thắc mắc, ngại ngùng quá đỗi. Ngồi một lúc dưới hố thì còn chịu được chứ ngồi suốt đêm thế này thì mỏi lắm. Lại đói và khát. Vừa nãy anh định tạt qua mộ thăm bố rồi về lều ăn cơm. Hôm qua, cô Trinh tới chơi, đã kho tiêu giùm một nồi cá bống mũn, nhiều con với hai bọc trứng ăn thiệt bùi, lại thêm một nồi canh chua cá chép nấu với nhót, bắp cải và cà chua thật ngon. Nồi cơm đã nấu còn ủ trong than rạ cho nóng; anh chỉ việc hâm canh là ăn. Chợt thấy nàng ra lệnh gì đó với đám thể nữ. Lập tức đám quân sĩ khiêng những cái cọc và những tấm vải buồm từ dưới thuyền lên. Họ đưa đến chỗ anh Chử đang nấp bên dưới, đóng cọc, vây màn, xong lại khiêng cả một chum nước ngọt để ở trong màn. Xong, bốn thể nữ đưa công nương tới, vạch màn cho nàng vào. Thì ra họ vây màn cho nàng tắm. Ðây chắc chẳng phải lần đầu vì mọi thứ trang cụ đều được sắp đặt qui củ, từ cái gáo dừa có chuôi dài để múc nước, cái khăn tắm trắng phau đến cái lược ngà sang trọng và vài hũ hương liệu chỉ vua chúa mới có. Từ từ cởi bỏ từng tấm xiêm y, công nương mỉm cười nhìn khuôn mặt xinh đẹp của mình trong chum nước trong vắt, có vẻ rất hài lòng. Nàng vuốt mớ tóc đen mun xõa xuống đôi vai nổi bật trên làn da trắng, ngắm nghía bộ ngực căng tròn, thanh tân của mình, rồi đưa mắt xuống đôi bàn chân để trần trên cát... Nàng đúng là hiện thân của một nàng tiên trên thượng giới. Trong lúc đó, anh Chử Đồng Tử nằm im bất động hai mắt nhắm lại, chỉ để hở một cái lỗ cát nhỏ để thở. Phải đến bốn ngàn năm sau, thi hào Nguyễn Du mới tả chân người đẹp trong mấy vần thơ: Mát trời bãi biển thong dong Thang lan rủ bức, trướng hồng tẩm hoa Rõ mầu trong ngọc, trắng ngà Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên! (Nguyên bản: Buồng the phải buổi thong dong, ở đây đổi đi cho hợp) Rồi nàng lấy chiếc lược ngà nhẹ nhàng chải mớ tóc mây mà nhà thơ Bích Khê đã ca tụng: Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc Vài chút trăng say đọng ở làn môi Và một nhà thơ tiền chiến khác: Ngực trắng tròn như một trái đồi Mắt thì bằng rượu, tóc bằng hương Nụ cười bừng nở hàm răng lựu Sáng cả trời xanh mấy dặm đường! Mấy dặm đường ở ngay bãi biển Chử xá này, nơi ba chiếc thuyền của công nương vừa tạm neo lại nghỉ đêm. Sau khi đã tháo nữ trang bỏ vào một cái bát sứ lớn, công nương đứng cúi xuống một chiếc thau đồng đánh bằng cát mịn sáng rỡ để trên cái giá gỗ cao vừa tầm, dùng gáo dừa múc từng gáo xối từ từ lên đầu, một tay xoa nhẹ những lọn tóc, miệng khẽ hát một bài hát theo điệu Lưu thủy, một điệu dân ca Việt Nam rất hay thời đó. Rồi nàng vốc một vốc nước bồ kết đã ngâm trong cái bát sứ, rải trên đầu, lại xoa mái tóc cho bọt bồ kết nổi lên, xong nàng dội lại bằng nước ngọt trong chum. Nếu ở trong hoàng cung, nước tắm và gội đầu sẽ là nước nấu với lá sả, lá chanh, hoa hương nhu, hoa bưởi thơm ngào ngạt nhưng đi du lịch thế này, nàng bảo đám thể nữ giản dị tối đa vì hoa bưởi, hoa nhài tươi dọc đường không sẵn mà hoa lá khô nàng lại không thích. Thôi cứ nước trong trẻo ở giữa dòng sông cũng được. Trong khi nàng tắm gội, đám thể nữ cũng rảnh rang đi làm công việc riêng, chỉ để một cô đứng xa xa trông chừng, phòng công nương gọi sai bảo. Gội đầu chải tóc xong, nàng cũng dùng gáo dừa múc từng gáo nước trong veo, ngọt lịm, xối lên tấm thân thể nõn nà, miệng vẫn nho nhỏ tiếp tục bài ca với nhiều thích thú. Chử Ðồng tử ngồi trong hố, nín thở mà nghe. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, anh chưa từng được nghe một bài ca tuyệt hay như vậy bao giờ nhất là bài ca từ miệng một mỹ nhân xinh tươi sang trọng mà anh nghĩ chỉ có thể sánh với tiên. Quần chúng hồi đó coi tiên cũng như người nhưng là người thoát phàm, đẹp đẽ, trẻ trung, thanh lịch, không bao giờ già, có quyền phép hô phong hóan vũ và chỉ ở với nhau tại những nơi u tịch như núi cao, rừng sâu, hải đảo v.v... Bỗng có tiếng nói và những tiếng cười khúc khích ở bên ngoài. Tiếng cô trưởng đội thể nữ nói vọng vào: “Trình Mị Nương, khi Mị Nương tắm xong, Mị Nương gọi tụi em nhé!” Tiếng nàng từ trong màn, trong trẻo và thanh tao như một cung đàn, nói vọng ra: “Ừ, hễ xong ta sẽ gọi.” Một cô khác: “Bẩm Mị Nương Tiên Dung, mị nương muốn tụi em vào kì cọ hầu hạ Mị Nương không? Mị Nương đẹp chim sa cá lặn vậy thì chẳng phải các hoàng tử, công tôn mà chính tụi em cũng muốn gần gụi, hầu hạ Mị Nương.” Nàng gắt yêu: “Thôi, mấy con khỉ. Ðừng chọc ta nữa!” Ở bên ngoài, đám thể nữ ôm nhau bụm miệng cười ngả nghiêng, có cô ngã nằm xoài trên cát. Họ săn sóc công chúa đã lâu, từ khi nàng mới sinh cho tới nay đã tuổi trăng tròn. Nàng chính là công chúa Tiên Dung, ái nữ vua Hùng Vương thứ ba nước Văn Lang. Vua cha và hoàng hậu rất yêu quí nàng vì nàng xinh đẹp, lại thông minh xuất chúng. Sách chữ Hán hồi đó, quan Hàn Lâm đại học sĩ - vị quan được nhà vua giao trọng trách giáo dục công chúa - dạy một, nàng biết hai, ba và những lúc rảnh rang, nàng cùng vua cha và hoàng hậu xướng họa thơ phú rất tương đắc. Dù xinh đẹp và văn hay chữ tốt như thế, công chúa Tiên Dung vẫn khiêm nhường, hoà nhã với mọi người, từ trong triều đình đến ngoài thứ dân nên ai cũng ngợi khen đức độ và mến mộ nàng. Từ khi nàng mới mười bốn tuổi, đã nhiều hoàng tử con các hoàng đế ở những nước lân cận đem các đồ sính lễ quí báu như ngà voi, sừng tê giác, vàng, ngọc, trầm hương, hạt tiêu, lông trĩ v.v... đến xin cưới nàng, nhưng vua cha và nàng đều từ chối, lấy cớ còn nhỏ tuổi. Có mấy chỗ rất môn đăng hộ đối, vua và hoàng hậu rất ưng ý vì vị hoàng tử khôi ngô tuấn tú, thông minh dĩnh ngộ hơn người còn vua cha và hoàng hậu - cha mẹ hoàng tử - thì đang cai trị một nước lớn mạnh muốn thông hiếu với vua Hùng, thí dụ: hoàng tử nước Xiêm la, hoàng tử nước Trung hoa, thái tử nước Chiêm thành, hoàng tử Mã lai v.v...Nhưng khi hoàng hậu và vua cha hỏi, nàng đều lắc đầu từ chối làm hoàng hậu và vua Hùng lo nghĩ vô cùng bởi không lẽ nàng ở độc thân suốt đời? Vua cha và hoàng hậu muốn có phò mã sớm và đương nhiên có thể có cháu ngoại sớm, nếu là con trai, biết đâu sau này có thể nhờ cậy. Nàng chỉ có thú vui là đọc sách thánh hiền và đi ngoạn cảnh thiên nhiên khắp nơi. Những nơi nổi tiếng như Vịnh Hạ long, chùa Hương tích, núi Chapa Sầm sơn, Tam đảo, Ba Vì... nàng đều đã viếng thăm. Khi đi như vậy, vua Hùng và hoàng hậu cấp cho nàng ba chiếc thuyền lớn, sáu mươi tay vừa là bảo vệ vừa chèo thuyền và một đội thể nữ hai mươi người để phục vụ nàng. Thuyền có thể đi ròng rã ba tháng không hết lương thực và nước ngọt, vả lại nếu thiếu tới đâu quân sĩ sẽ vào các làng mạc kế cận mua bổ túc tới đó. Tiếng đồn nàng thích ngoạn cảnh thiên nhiên đến tai vị Thái tử Xiêm la, một vị Thái tử nổi tiếng văn võ toàn tài và khôi ngô tuấn tú... Bữa đó, nàng cũng đến ngoạn cảnh trong vịnh Thái lan. Được tin mật báo từ đám quân lính canh phòng biên giới của chàng, chàng bèn dùng một đội ba chiếc thuyền lớn, trang hoàng rất đẹp đẽ, sang trọng, đi theo đoàn thuyền của nàng và cho người dùng thuyền nhỏ chèo tới dâng đồ lễ xin nàng cho gặp mặt. Nhưng nàng nhã nhặn từ chối, nói chưa tiện dịp, ra lệnh cho thủy thủ rẽ qua hướng khác. Nàng từng tâu với vua Hùng Vương đệ tam và hoàng hậu, nếu không gặp được một đức lang quân cùng người Việt, cùng nói tiếng Việt, nghĩa là một người cùng xứ sở, người đó lại cũng có đức độ, có tài học thì nàng sẽ ở vậy hầu hạ vua cha và hoàng hậu cho đến mãn đời. Vua Hùng và hoàng hậu, sau nhiều lần gặng hỏi vì nhiều nơi mai mối, thấy ý nàng đã quyết, cũng không ép nàng nữa. Ngày hôm nay, theo lịch trình, nàng sẽ lưu lại bãi biển này dăm ngày và sau đó, sẽ trở về kinh đô Phong châu nước Văn lang vì chuyến này nàng đã dong ruổi trên hai tháng từ vùng Ðộng đình hồ đến vịnh Hạ long và vùng Sầm sơn, Tam đảo... Tại Sầm sơn, nàng đã mua được một cặp ngà voi dài ba thước (1 thước VN = 40cm); một cặp sừng tê giác và hai viên bích ngọc rất lớn, rất quí. Nàng định đem tất cả về biếu cha mẹ vì công ơn dưỡng dục sinh thành và lo lắng cho nàng đủ mọi thứ. Khi công chúa tắm gần xong, chum nước ngọt đã vơi quá nửa, công chúa đang dùng cái lược ngà chải đầu thì bỗng nhiên nàng nhìn thấy ngay cạnh chỗ nàng đứng, một mảng lưng trần mầu nâu của một con người lộ ra. Công chúa quá sợ hãi, ôm lấy ngực, toan la lên vì ngờ rằng ma quái hiện hình (thời đó có nhiều ma quái) thì bỗng nghe tiếng nói trầm trầm, một giọng đàn ông, từ mảng lưng trần đó cất lên: “Thưa Mị nương, chớ sợ! Tôi là Chử Ðồng tử, là người, chứ không phải ma quỉ gì đâu!” Sở dĩ Chử Đồng tử biết rõ Mị nương vì nãy giờ Đồng tử đã nghe công chúa và bọn thể nữ đối đáp. Công chúa Tiên Dung vẫn còn run nhưng đã bớt sợ: “Vậy chớ sao ông lại nằm dưới chỗ này? Nơi tôi tắm?” Ðến lúc này, không sao hơn, Chử Ðồng tử mới lồm cồm bò dậy, nhưng vẫn ngồi trong hố cát, thưa với công chúa: “Tôi đang tìm nơi câu cá dọc bãi biển này thì ba chiếc thuyền của Mị nương đến. Vì chẳng biết trốn đi đâu, nhân có cái hố này đào sẵn, tôi nhảy bừa xuống ẩn nấp. Nào ngờ lại trúng ngay nơi Mị nương chọn để tắm. Xin Mị nương tha cho tội chết.” Nói xong, Chử Ðồng tử sụp xuống lạy, mặt mày băn khoăn ngại ngùng vì tấm thân trần truồng của mình. Công chúa đã mặc lại xiêm y. Nàng lấy cái thắt lưng bằng lụa xanh của nàng trao cho Chử Ðồng tử: “Không, ông chẳng có lỗi gì với ta cả. Hãy lấy cái thắt lưng này quấn tạm!” Khi Chử Đồng Tử đã quấn xong dải lụa ngang lưng, anh mạnh bạo đứng thẳng lên thì rõ ràng trước mắt công chúa Tiên Dung là một trang thanh niên khôi ngô tuấn tú, khuôn mặt chữ điền cương nghị, đôi mắt sáng như hai vì sao với những tia nhìn thẳng thắn, bộc trực và thân hình cao lớn, lực lưỡng, những bắp thịt ở tay, chân và lưng nổi cuồn cuộn chứng tỏ công phu học tập võ nghệ cao cường. Mái tóc đen phủ vai, hàm râu quai nón, nước da của anh mầu nâu trông lại càng khỏe mạnh như một pho tượng đồng. Công chúa Tiên Dung suy nghĩ rất lung. Nàng chưa bao giờ gặp một trường hợp quá đặc biệt như thế này. Nàng ngạc nhiên vì sao một người nghèo đên không có quần áo mặc mà tư cách và lời ăn tiếng nói lại khác xa những người cùng hòan cảnh. “Chàng không có lỗi gì cả,” công chúa đổi lối xưng hô. “Đây là lòng Trời sắp đặt mà thôi.” Rồi công chúa tóm tắt cho Chử Ðồng tử hay nàng là ai và sau đó, nàng yêu cầu Chử Đồng Tử nói cho nàng biết qua về chàng và vì sao chàng phải trần truồng thế này. Công chúa Tiên Dung đứng nghe, lòng bồi hồi thương cảm, nhất là đọan Chử Đồng Tử chiến đấu với hai con chó sói và con gấu và quyết định không táng trần người cha. Nàng bảo Chử Ðồng tử: “Chàng là một người con hiếu thảo rất hiếm có trên đời. Chàng cũng là người có lòng nhân hậu nên Trời dun dủi những may mắn đến với chàng. Xưa nay, thiếp chỉ một lòng một dạ đi tìm một thanh niên hiếu đễ, có đức độ, có khả năng hơn người để nâng khăn sửa túi. Nhưng đi hòai mà chưa gặp được ai vừa ý. Thế mà đến bãi biển này, hẳn là lòng Trời se định, cho thiếp gặp được chàng trong một hòan cảnh hãn hữu thế này. Đó chẳng phải là do Trời xếp đặt ư? Với thiếp, điều quan trọng hơn hết là tấm thân trinh bạch của thiếp chỉ đợi để dâng người quân tử, người chồng thiếp yêu thương mãi mãi mà qua lòng Trời, tấm thân này đã thuộc về chàng kể từ giờ phút này. Vậy chàng nhận lễ này, từ nay chàng là phu quân của thiếp. Xin chàng chớ chối từ.” Nói xong, công chúa Tiên Dung sụp xuống lạy Chử Ðồng tử hai lạy. Chử Ðồng tử rất đỗi sợ hãi, anh vội tránh sang một bên và nâng nàng lên, chắp hai tay cung kính: “Tôi chẳng xứng đáng được Mị nương thương yêu nhận làm chồng. Nghe Mị Nương nói làm tôi hổ thẹn về những bất toàn con người tôi. Mị nương là lá ngọc cành vàng, giầu có quyền quí, sang cả nhất nước Văn lang, con vua Hùng Vương. Còn tôi chỉ là một anh đánh cá hèn mọn, tầm thường, không nhà không cửa, sao dám sánh duyên cùng Mị nương!.” Công chúa Tiên Dung ngắt lời Chử Đồng Tử: “Chàng đừng câu nệ về sự chênh lệch địa vị xã hội và vật chất của cải giữa thiếp và chàng. Những thứ đó chỉ như một làn gió thoảng, một ngày nào đó sẽ chẳng còn. Vả lại, quyền cao chức trọng và của cải vật chất là của Phụ vương và Mẫu hậu của thiếp, thiếp chẳng có gì ngoài một thể xác và tâm hồn này. Mà thể xác thì, trong khoảng thời gian vừa qua, đã thuộc về chàng rồi. Tấm trinh bạch này không thể dâng cho ai khác!” Chử Ðồng tử vẫn giữ nguyên ý định: “Dù Mị nương nói sao tôi cũng không thể vâng lời Mị nương được. Xin cám ơn Mị nương đã dành cho tôi một tình cảm đặc biệt mà không người nào trong hoàn cảnh tôi dám mơ ước. Hơn nữa, dù tôi có vâng lời Mị nương nhưng còn Ðức vua Hùng, Hoàng hậu và triều đình. Tôi chắc chắn các vị đó không để tôi được sánh duyên cùng Mị nương đâu. Xin Mị nương nghĩ lại.” Công chúa Tiên Dung chắp hai tay trước ngực, mắt nhìn vào mắt Chử Đồng Tử, biẻu lộ sự chân thành và kính yêu tuyệt đối: “Không, thiếp nói thật lòng thiếp với chàng rồi. Ðã bao vương tôn, hoàng tử ngỏ lời cầu hôn, nhưng thiếp vẫn dửng dưng, không hề có ý nghĩ xây dựng hôn nhân và hạnh phúc gia đình với ai cả. Nhưng từ lúc thấy chàng nằm dưới gáo nước thiếp dội trên thân thể thiếp thì một mãnh lực nào vô hình vô ảnh thúc đẩy thiếp, cũng như bên tai thiếp có những lời nhắn nhủ hình như của các đấng thần thiêng từ một cõi xa xăm:” Ðây là người chồng mong đợi của con. Con hãy gá nghĩa phu thê với chàng!” Nếu chàng không ưng mà từ khước lời thỉnh cầu của thiếp thì thiếp trọn đời sẽ chẳng lấy ai và sẽ tìm một nơi thiên nhiên u tĩnh, tránh xa vòng tục lụy, ở vậy phụng dưỡng Phụ vương, mẫu hậu và tu thân tích đức cho đến mãn đời. Chàng hiểu lòng thiếp không?” Với lời lẽ chân thành, nét mặt nghiêm trang, phong cách quí phái hồn nhiên của công chúa, Chử Ðồng tử chẳng còn cách chối từ. Tuy nhiên, thấy nàng sang trong và xinh đẹp quá, còn mình thì nghèo nàn, Chử Ðồng tử vẫn ngượng ngùng, mắc cở. Công chúa hiểu ý, nàng nhỏ nhẹ: “Chàng đừng ngại vì cái nghèo của chàng. Chàng nghèo thể xác nhưng giầu tâm hồn. Chàng hiếu thảo, nhân hậu và ngay thẳng; đó là những đức tính đáng quí. Chính lòng hiếu thảo của chàng đối với phụ thân và sự mộc mạc chân thành của chàng đã đánh động tâm hồn thiếp. Thiếp đã gặp nhiều vương tôn, hoàng tử, lãnh chúa quyền nghiêng thiên hạ, vàng bạc châu báu cả kho, quân hầu đầy tớ cả ngàn nhưng chưa chắc những người ấy có lòng hiếu thảo như chàng, có sự chân thành, đức độ, ngay thẳng như chàng. Có một số chỉ nhìn vào sắc đẹp của thiếp và sự giầu có quyền thế của Phụ vương, mẫu hậu thiếp mà cầu hôn. Tuyệt nhiên họ chẳng yêu thương thiếp vì đã biết bề trong, tính tình của thiếp đâu mà yêu? Họ nhắm vào gia tài và có lẽ cả cái ngai vàng của phụ thân thiếp. Còn chàng, thiếp biết chắc là không vì chàng là mẫu người chân thực, đức độ và yêu thương thiếp mãi mãi.” Chử Đồng tử sụp xuống lậy Tiên Dung: “Tôi cảm ơn nàng đã hiểu rất rõ lòng tôi và tấm chân tình của tôi đối với nàng. Nàng đã nói như vậy thì tôi không dám từ chối nữa. Tôi hứa yêu nàng cho đến lúc đầu bạc răng long, đến mãn đời để tạ ơn nàng đã biệt nhãn tôi như thế này.” Công chúa Tiên Dung vội đỡ chàng dậy: “Phận thiếp là người dưới, phải vái lạy chàng là lẽ đương nhiên. Còn chàng, chàng là người thuyền trưởng, là vị tướng chỉ huy, từ nay chàng nói gì thiếp cũng tuân theo, y như khi còn ở với cha mẹ, thiếp vâng lời cha mẹ vậy.” “Trình Mị Nương, tụi em vào được chưa?” Tiếng cô trưởng đoàn thể nữ nói vọng vào từ bên ngoài. Công chúa đáp: “Ừ, các em hãy vào đây!” Ba, bốn cô vạch cửa màn chui vào. Nhưng họ đều bật ngửa, có cô rú lên chạy ngược ra. Công chúa Tiên Dung đang đứng đối diện một thanh niên trần truồng, trên mình chỉ quấn một cái khố xanh. Chàng thanh niên mặt mày khôi ngô, thân hình cân đối đẹp như một pho tượng sống. Công chúa cười bảo các cô thể nữ: “Các em nghe đây! Ðây là Chử Ðồng tử, phu quân của ta từ giờ phút này. Các em hãy lấy quần áo cho chàng mặc và thông báo quân sĩ các cấp chuẩn bị mọi việc và đợi lệnh nhổ neo hồi kinh. Ta cần phải trình sớm việc này lên phụ vương và hoàng hậu.” Khi cả trại biết tin công chúa Tiên Dung đã lựa được Phò mã, gần một trăm con người háo hức muốn nhìn tận mắt Phò mã và ngay sau khi họ rõ được câu chuyện Phò mã ở trong hố cát lúc công chúa tắm thì tính hiếu kì của họ càng lúc càng tăng. Những lời xầm xì, bàn tán nổi lên. Có kẻ không tin điều đó có thể xẩy ra, cho là một sự ngụy tạo nào đó. Kẻ tin thì cho là Chử Ðồng tử tốt số “tốt số hơn bố giầu” nhưng đến khi được trực diện với Chử Ðồng tử mới thấy tuy chàng nghèo nhưng cốt cách phong nhã thanh cao, ăn nói đĩnh đạc, ắt không phải là một kẻ tầm thường. Có kẻ lại chê công chúa sao vội vã quá; đành rằng có vẻ như thiên duyên xếp đặt, nhưng sao công chúa lại kết duyên với một kẻ cùng đinh xã hội như vậy. Thà lựa lấy một người khá nhất trong ...bọn họ còn hơn, như quan Đô úy, quan Lệnh úy, cũng dăm, sáu người. Tuy thế, những lời dị nghị này chỉ trao đổi giữa lúc đêm hôm khuya khoắt và giữa những người bạn chí thân với nhau. Quân kỉ nghiêm, họ biết nếu cấp trên nghe được, họ sẽ bị trừng phạt vì tội “dèm pha hoàng gia”. Dù sao, công chúa cũng được báo cáo về chuyện này. Nàng nghĩ phải dập tắt những xì xào bàn tán bất lợi cho nàng. Một bữa, nàng truyền “hỏa đầu quân” lên chợ mua một con bò, hai con lợn và các thứ gạo tẻ, nếp, rau cải thật nhiều. Bò được đốt lửa thui lên, lợn cắt tiết làm lông xả ra nấu nướng. Lại thêm vài chục vò rượu trắng và các thức uống, nàng nói bữa tiệc để đãi đằng các tướng sĩ và các thể nữ trên đường lai kinh. Khi mọi việc đã chuẩn bị sẵn sàng, vị tướng tổng chỉ huy đứng trên bục cao tập họp hàng quân lại, đội nào ngũ đó. Ông cho người đi mời Công chúa và Phò mã từ dưới thuyền lên. Khi đội thể nữ rước công chúa và phò mã tới, vị tướng hô đòan quân đứng nghiêm chào, người nào người nấy cầm giáo, mác, trường thương, xà mâu, thuẫn, mã tấu, đại đao...trông rất uy nghi. Công chúa Tiên Dung đứng trên một bục cao nhất, đứng cạnh là Chử Phò mã, các thể nữ sắp hàng đứng hai bên. Nhìn xuống đoàn quân đứng im phắc phía dưới, Công chúa có vẻ hài lòng. Nàng dõng dạc phát biểu: “Các võ tướng chỉ huy, Các quân sĩ và thị nữ của ta, hãy nghe đây! Ta được Phụ vương và mẫu hậu cho phép chu du ngoạn cảnh. Từ ngày bắt đầu ra đi, ta đã được các ngươi hết sức săn sóc, làm mọi nhiệm vụ ta giao phó rất chu đáo. Ta rất ngợi khen. Bấy lâu các ngươi cũng biết do danh tiếng của Phụ vương và mẫu hậu của ta, rất nhiều thái tử, vương tôn nhiều nước mang lễ vật đến cầu thân nhưng lòng ta dửng dưng. Người cuối cùng là thái tử Xiêm la như các ngươi chứng kiến. Ta lập tâm nếu không gặp được người đồng hương hợp tính hợp tình mà ta yêu mến thì ta quyết chí ở vậy tu thân tích đức và phụng dưỡng phụ vương và mẫu hậu của ta đến trăm tuổi hạc sau đó sẽ kiếm một nơi tiên cảnh di dưỡng tuổi trời. Nhưng hoàng thiên sắp đặt, khi đến bãi biển này, ngẫu nhiên mà ta gặp được Chử Phò mã đây, một cuộc gặp gỡ vô cùng hãn hữu. Ta luôn tin rằng cái gì cũng do Trời, tất cả do thiên mệnh và “Hòang thiên bất phụ hảo tâm nhân” bởi vậy một cuộc gặp gỡ kì ngộ như các ngươi đã chứng kiến tận mắt không thể nào là sự sắp đặt của con người. Vả chăng, Chử Phò mã là người hiếu thuận, đức độ ít kẻ bì, lại khiêm cung và có năng lực suy nghĩ vượt trội ta đã nhận thấy sau khi ta cùng chàng đàm đạo ít hôm. Ta sẽ trình việc này lên phụ vương và mẫu hậu của ta khi ta về tới kinh đô để các ngài định đoạt. Kể từ giờ phút này, ta ra nghiêm lệnh, tất cả không được xầm xì bàn tán về chuyện này nữa. Kẻ nào bất tuân sẽ bị trừng phạt nghiêm minh. Các cấp chỉ huy trực tiếp phải coi chừng và giáo dục quân sĩ dưới quyền. Trình lên ta tất cả những vi phạm lệnh này. Dù nhiệm vụ chính của các ngươi là bảo vệ ta trong lúc du lịch, ta muốn các võ tướng vẫn tiếp tục chương trình huấn luyện về võ thuật cho quân sĩ thuộc quyền để người nào cũng tinh thông võ nghệ hầu sau này có lúc Phụ vương ta và triều đình cần đến. Tất cả đã hiểu rõ ý ta chưa?” Gần một trăm cái miệng cùng ào ào thưa lại: “Thưa, hiểu rõ!” Công chúa lại nói: “Sau đây là bữa tiệc ta và Chử Phò mã đãi mọi người. Các tướng, sĩ và thể nữ hãy ăn uống, vui chơi nhưng cấm không được say sưa, cãi lộn, ăn nói quàng xiên, làm mất trật tự. Những kẻ có nhiệm vụ canh gác và tuần rỏn sẽ được cấp chỉ huy liệu lí cho dùng bữa trước hoặc sau nhưng phải làm nhiệm vụ chu đáo. Nghe rõ chưa?” “Dạ, rõ.” Sau đó, vị tướng tổng chỉ huy đòan quân đứng ra hô nghiêm chào công chúa và phò mã xong cho giải tán để chuẩn bị tiệc tùng. Những tấm vải buồm được trải la liệt trên bãi cát. Bát đĩa không đủ thì dùng lá chuối, lá giong bày thịt cá lên trên. Rượu trắng do dân Văn Lang cất được tiếng là ngon từ vò đổ ra như suối. Thịt bò thui vàng chấm tương gừng; thịt heo đánh tiết canh, làm thành nem chạo, nấu ninh mọc; xôi gấc, xôi đậu xanh, đậu phọng từng mâm đầy ú. Mùi thức ăn ngào ngạt bay trong không khí. Những lá cờ Văn Lang đuôi nheo cắm rợp một bãi biển Chử Xá phất phới bay. Những tiếng mời ồn ào. Tất cả ăn uống, cười nói vui vẻ y như một đám cưới không chính thức của công chúa Tiên Dung và Chử phò mã. Công chúa và Chử phò mã ngồi chủ tọa tại một chiếc bàn dài cùng với ba ông tướng chỉ huy hàng quân và cả đội thể nữ. Lại có thêm mấy người Hội đồng hương lí sở tại, công chúa đã cho mời đến dự cho vui. Tiệc rượu bắt đầu từ trưa kéo tới gần tối mới tàn. Kể từ đó, trong đám quân sĩ và thể nữ, không còn ai dám bàn ra tán vào về chuyện đó nữa mà tất cả đều cung kính đối với Chử phò mã cũng y như đối với công chúa Tiên Dung. Dọc đưòng về, ở những nơi thị tứ, khi đội thuyền của công chúa đậu lại nghỉ ngơi hoặc mua thêm đồ ăn thức uống, dân chúng nghe tin đổ xô đến chiêm ngưỡng công chúa và phò mã. Dĩ nhiên họ có được nghe về giai thoại phò mã nấp trong hố cát. Ai cũng cho là thiên duyên, lòng trời se định. 3. Bà Hàng đang nấu nồi cám lợn trong bếp. Con lợn nái mới đẻ được mười hai con, nó “ột, ột” đòi ăn cả ngày. Nó cần có đủ sữa cho con nó bú. Đây nhé, con bé Trinh coi vậy mà nó khó. Nó chẳng thấy nhắc nhở đến ai, ngoài anh Đồng Tử. Có nhiều bà mai đến to nhỏ với bà cho mấy người trong làng có con trai đã lớn. Nào ông bà Bát, nào cụ trưởng Diễn, nào ông xã Thâm...Còn nhiều nữa, bà không nhớ hết. Mà nhớ làm gì, khi bà mới nói cái tên, Trinh đã lắc đầu quầy quậy. Gặng hỏi thêm thì Trinh nói:” Con chưa lấy chồng, đâu mẹ.” “Vậy thì bao giờ mày mới lấy?” “Con chưa biết nữa.” Rồi Trinh chạy đi. Về phần bác Phù Vân thì dễ rồi. Coi bộ bác chịu con Trinh lắm. Bác biết nó thích cá rô Đầm Sét nướng than hoặc rán lên; ngày nào hai bố con bác ấy đi đánh giậm hoặc cất vó ở Đầm Sét bắt được cá rô là thế nào Chử Đồng tử cũng đưa cá rô vào biếu. Tuy vậy, chưa biết là anh ấy đã thương yêu nó chưa. Anh ấy kín đáo, nghiêm trang và đối tốt với mọi người nên khó dò ý.” “Dạ, con mới về mẹ à! Con đã mua đủ thứ mẹ dặn. Để rồi con bày ra cho mẹ coi.” Đó là một trong những mẩu chuyện khi ông Chử Phù Vân còn sinh thời. Thực ra, lúc đó sự qua lại, thăm hỏi của Trinh vẫn dễ dàng hơn. Từ khi Chử ông mất, trong lều chỉ còn một anh con trai, Trinh phải tự giới hạn sự thăm hỏi chỉ vì người ưa ít nói tốt nhưng kẻ ghét thường hay nói xấu, đặt điều. Vả lại, ngoại trừ những giấc ngủ ban đêm, Chử Đồng tử ít khi ở trong lều ban ngày. Không đi săn thú thì anh đánh cá hoặc ra ngồi bên mộ bố suy nghĩ vè cuộc đời vô thường. Phải đến mấy nghìn năm sau các đạo Phật, Khổng, Lão mới được du nhập vào Việt Nam, con người mới được học về lẽ vô thường nhưng lúc đó Chử Đồng Tử đã chiêm nghiệm ra cái mỏng manh của kiếp người sau cái chết của bố anh, mẹ anh và nhiều người xung quanh. Biển hôm nay sao nóng quá, không có lấy một ngọn gió nhẹ cho mát. À phải, anh ấy hỏi thì nói người trong chợ đồn đoàn thuyền công chúa tới bãi biển này. Đoàn thuyền công chúa tới thì sao? Thì... sợ đoàn thuyền công chúa bắt anh đi. Nói bậy ra vậy được không? Chắc anh ấy cười. Chưa già đã lẩm cẩm. Đứng trước của lều, Trinh nói lớn: Trinh nghe tiếng cha nhưng không trả lời. Cô vùi đầu xuống gối khóc. Ông Hàng đứng cửa buồng nhìn vào: “Để bố nấu cháo hành con ăn cho khỏi cảm nhé!” 4. Trinh vẫn khóc. Nàng giấu mặt vào gối. Nàng buồn chán đến không còn muốn nhìn thấy ai, kể cả bố mẹ. Ông Hàng cũng dỗ con: Chử Đồng tử, vẫn dây chuối bện trên đầu và trên người, chào ông bà Hàng: “Thưa hai bác.” Ông bà Hàng trố mắt nhìn Chử Đồng tử, ngạc nhiên và sung sướng: Chử Đồng Tử lúc đầu do dự, nhưng sau đó, vì bản tính thẳng thắn, anh thuật lại mọi chi tiết. Anh ngập ngừng khi nói sẽ theo Mị nương Tiên Dung về kinh đô Phong Châu theo lời yêu cầu của Mị Nương. Trinh đã pha trà, rót ra ba cái chén sành. Nàng làm việc nhưng tai vẫn nghe những lời đối đáp ở phòng khách vì nàng có cảm tưởng lần thăm này của anh Chử Đồng Tử sẽ quyết định cuộc đời của nàng. Rót nước xong, Trinh mời cha mẹ và Chử Đồng tử rồi lại vào buồng trong ngồi nghe ngóng. Quan niệm xưa lấy vợ là phải đẻ con, hoặc nhiều, hoặc ít. Số cặp vợ chồng tự nhiên không con rất ít. Với Trinh, Trinh đã chẳng chê anh nghèo mà còn kín đáo nói cho anh biết hai trái tim đập cùng một nhịp trong một túp lều tranh thì chẳng có gì quí hơn. Vàng bạc của cải là cần thiết cho đời sống nhưng nó sẽ không có nghĩa nếu thiếu vắng yêu thương. Mà yêu thương thì anh Chử không thiếu tinh tế để cảm nhận tình yêu thương sâu đậm và chân thành của Trinh và để đáp lại, anh cũng yêu Trinh ...cho đến khi gặp công chúa Tiên Dung. Nhìn Trinh khóc, anh muốn bảo Trinh: Ngày hôm sau, khi công chúa Tiên Dung đế cập đến việc hồi kinh thì Chử Đồng Tử nói: Tại mộ mẹ, Chử Đồng Tử cũng làm y như ở mộ bố. Sau khi lễ tất, công chúa nói với Đồng Tử: Tại bãi biển khu chợ Bài, người ta thấy một thiếu nữ mặc bộ quần áo vải thô, mái tóc đen, dài để xõa trong gió ngàn, đứng tựa gốc thông già, nhìn đoàn thuyền dần xa. Gió vi vu qua kẽ lá, còn nàng mắt đỏ hoe vì đang khóc. Có lúc nàng kêu tên “Chử Đồng Tử! Chử Đồng Tử!”; có lúc lại lẩm bẩm những gì không rõ. * * * Trong suốt cuộc hải hành, công chúa Tiên Dung để Chử Đồng tử ngồi ở thuyền dẫn đầu, trò chuyện có viên võ tướng chỉ huy đoàn Ngự lâm quân. Chử Đồng tử tỏ ra rất am tường địa hình, địa vật khắp vùng cũng như kinh nghiệm đi trên sông biển. Mỗi khi đoàn thuyền đậu lại nghỉ hoặc lên bãi dựng lều hoặc ghé các nơi thị tứ, các chợ mua thêm đồ ăn, nước uống, công chúa lại có dịp cùng Chử Đồng tử đàm đạo. Nàng mang sách cho chàng đọc, chỉ cho chàng những căn bản chàng chưa có dịp học. Chàng rất thông minh nên học đâu biết đó nên chỉ trong thời gian ngắn, chàng đã thâu thái được khá nhiêu kiến thức tổng quát mà người bình thường phải học trong hai, ba năm. Công chúa mặc chiếc áo lụa bạch, xiêm mầu xanh lục, cổ đeo chuỗi ngọc trai biển Đông, mái tóc đen huyền cài kim thoa bằng vàng, hai tai đeo đôi bông tai có hai hạt kim cương lóng lánh, cổ tay, cổ chân đều đeo vòng ngọc thạch, mã não; chân đi hài thêu sang trọng vô cùng. Nàng đẹp lộng lẫy như nàng tiên trong truyện thần thoại - chính nàng là một nàng tiên - khiến vua Hùng, hoàng hậu và cả triều đình đều phải trầm trồ. Vua Hùng vương phán: Công chúa tiến lại nơi đức vua và hoàng hậu. Hai người ngồi trên hai cái kỷ sơn son thếp vàng, hai bên có tàn lọng mầu vàng rực, đồng mầu với cẩm bào của vua. Bá quan văn võ đứng dàn hai bên và đàng sau. Vua Hùng và hoàng hâu cùng đứng lên, lần lượt nắm tay công chúa Tiên Dung rất trìu mến. Công chúa vâng lời. Nàng trở lại thuyền. Mọi nghi thức đã được xếp đặt chu đáo từ những ngày còn lênh đênh trên biển nên đức vua, hoàng hậu và triều đình không phải chờ đợi lâu. Vua và hoàng hậu ban ngự tửu cho công chúa, Chử Phò mã và các quan văn võ để đánh dấu ngày vui hôm nay. Vua Hùng vương và hoàng hậu ngồi trên ngai để công chúa và Chử Phò mã lạy năm lạy. Sau nghi lễ cổ truyền của hoàng gia, mọi người trở về triều, vua ban yến cho đôi uyên ương và tất cả các quan. Trong hôn lễ cuả công chúa Tiên Dung và Phò mã Chử Đồng Tử, toàn dân Lạc Việt đều vui, đều tổ chức ăn mừng chung vui với hoàng gia vì nhà vua, hoàng hậu và công chúa được toàn dân quí mến.
|