Như chúng ta ai nấy đều biết, năm 1545, sau khi vua Lê-Trang-Tông (1533 –1548) trung hưng ở sông Tất-Mã, nhờ có Trịnh-Kiểm giúp sức mới dẹp yên đảng họ Mạc, trở về được chốn cố đô, từ đấy họ Trịnh mới trở thành một sức mạnh, kiêu căng, nhiều đời tiếp nối nhau làm chúa, nắm giữ hết binh quyền.
Hồi đó, em vợ của Trịnh Kiểm là Nguyễn-Hoàng vốn nuôi chí hùng cứ một phương, lại cũng sợ bị ám hại như Nguyễn-Uông, anh mình, mới thưa với chị ruột là Bảo-Ngọc, tâu giùm với chúa, xin vào trấn thủ đất Thuận-Hóa được Trịnh Kiểm chấp thuận và hơn mười năm sau lại còn được đồng ý cho giữ luôn đất Quảng-Nam, nhưng mỗi năm phải nộp thuế 400 cân bạc và 500 tấm lụa. Một hôm Đoan-Quận-Công Nguyễn-Hoàng phụng mệnh vua Thế-Tông ( 1573 – 1599 ) và chúa Trịnh-Tùng về Thanh-Hóa họp bàn việc nước. Nhân lúc thong thả mới đến thăm xã giao quan Thái-Phó Nguyễn-Hữu-Liêu. Sau khi chủ khách làm lễ tương kiến và sau một tuần trà, hai người không đề cập tới những chuyện quốc gia đại sự như việc bắt vua Anh-Tông (1556 – 1573 ) ở vườn mía, cũng không hào hứng ôn lại chi tiết cuộc chiến chinh do Trịnh-Tùng cầm đầu kéo năm Vạn quân ra cửa Thiên-Quan, qua núi Yên-Mã đánh nhau với quân nhà Mạc, đi khơi khơi như vào chỗ không người, chém đầu giặc như chém chuối, bởi lẽ những chuyện như thế, ai mà chẳng rõ, thôn quê, kẻ chợ, chỗ nào bàn dân thiên hạ cũng xôn xao ta thán, nào là “Nhất tướng công thành vạn cốt khô.” Nào là lại chuyện tranh bá đồ vương…khiến cho kẻ thắng, giữa những khoảng thời gian hãnh diện, kiêu ngạo…dù sao cũng còn chút lương tâm, bất nhẫn nghĩ lại, làm gì tránh khỏi những giây phút trạnh lòng, không muốn nhắc nhớ…vả lại các việc quốc gia đại sự ấy sẽ ghi vào sử sách muôn đời, kẻ thất phu khắp nước trước sau rồi cũng biết thôi. Hôm nay nhân lúc trà dư tửu hậu, quan thái-phó đã thuật cho khách biên đình nghe một tin thời sự thật ngậm ngùi nơi trường thi mà chính ông là quan chánh chủ khảo, người trong cuộc. Nguyễn Hữu-Liêu mới dáo đầu mấy câu chưa vào chuyện mà lời nói, dáng vẻ đã…ngậm ngùi khiến cho Nguyễn-Hoàng nôn nóng ngồi xích lại gần, lật đật thưa rằng: - Bẩm quan lớn, tôi vốn sống nơi quê mùa thảo dã, có mắt như mù,có tai như điếc chẳng hay tự sự đầu đuôi thế nào? Thay vì trả lời, chủ nhân chậm chạp vừa tiếp tục kể vừa suy nghĩ, không đi ngay vào điểm chính mà bắt đầu từ gốc rễ xa xưa..Bao giờ..tính quan lớn vẫn chuộng sự rõ ràng minh bạch như thế,ông chẳng muốn đặt chuyện, chỉ trình bầy câu chuyện, nên thỉnh thoảng lại nhắc nhớ lời phân trần của Đức Khổng-Phu-Tử “Ngã thuật nhi bất tác.” Và trước khi nói ai nghe điều gì phải biết cặn kẽ, “Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.” Phải lựa lời, xếp đặt…mục đích để khi bắt đầu cho đến kết thúc, mọi sự việc sẽ tuần tự, có đủ đầu đuôi rành mạch cho người nghe dễ dàng thấu đáo trước sau, nên cứ từ từ, giọng nói khi to khi nhỏ, lên xuống như vầy…như vầy…
Trong vòng rào một trại binh ước độ hai ngàn sĩ tốt, nằm về phía Bắc, không xa thị trấn Nghệ-An bao nhiêu…Là tiền đồn quan trọng bảo vệ Nghệ-An nên một đơn vị tinh nhuệ, binh hùng tướng mạnh đã trấn thủ khá lâu rồi, với trại gia binh, bãi tập, hàng quán v…v…làm cho cả khu vực trở thành đông đúc sầm uất. Lúc đó khoảng cuối giờ Mùi, hãy sớm, còn lâu mới nghe kẻng báo hiệu tập hợp cơm tối, điểm danh. Ngoại trừ những tên giữ phận sự canh gác, tạp dịch, số đông còn lại, tụm năm tụ ba, nhân lúc việc quân thong thả một nhóm lính khá đông châu đầu ngồi thành vòng tròn trên bãi cỏ khô,bên gốc cây phượng vĩ cành lá xum xuê, phía sau nhà bếp, thù tạc, chén chú chén anh đã đến hồi túy lúy. Trời vẫn còn nắng chang chang, cả nửa tháng nay người ta trông đợi không một giọt mưa, nhưng bọn tửu đồ thì đâu có để ý đến thời tiết, họ đang hào hứng thưởng thức những vừng cơm cháy nạy từ chảo gang bằng những cái xẻng, quét thêm chút mỡ hành vàng ngậy, bọn hỏa đầu quân chuyển tới tiếp tế vừa làm bổi đưa cay, vừa nuốt vô cho chắc bụng, rượu vào lời ra, vung chân múa tay la hét huyên thuyên, người nói cứ nói, kẻ nghe cứ nghe, kẻ không nghe thì người nói cũng cứ nói,nhằm nhò gì, quang cảnh rất ư là mất trật tự,nhưng không khí đầy cởi mở, huynh đệ chi binh, thỉnh thoảng lại nổi lên vài câu chửi thề tục tĩu làm tăng thêm phần đậm đà thân mật. Trong đám có tên Đào-Tá-Hán, nguyên là học trò nghèo, nghèo đến mức gia đình chẳng thể lo cho tiếp tục học hành thêm nữa, nên gặp lúc Lê- Mạc tương tranh, bèn đầu quân theo giúp vua Lê chúa Trịnh, nhân khi có chút hơi men đang chạy bừng bừng trong huyết quản, cao hứng, mới làm bài thơ ca ngợi công lao của họ Trịnh, đã sáng suốt chiếm lĩnh, cố thủ đất Nghệ-An, Thanh-Hóa làm căn bản vững vàng. Bài thơ có những câu hắn lấy làm đắc ý bèn đọc lớn cho bạn nhậu cùng thưởng thức. Nguyễn-Hữu-Liêu ngưng một lát như nhẩm lại cho chắc chắn rồi tiếp tục, ông nói “Ngã thuật nhi bất tác”…để xin “thuật” lại quan Quận Công rõ, mấy câu thơ ấy như sau: Trang Quốc sĩ ai bằng Trịnh-Kiểm, Tỏ thần uy đánh chiếm hai châu Thẳng đường rong ruổi vó câu Phù Lê diệt Mạc trước sau một nhời. Ngay lúc đó viên xuất đội ngang qua, chắc trong bụng cũng có đôi chữ thánh hiền, muốn tâng công, bèn đem bài thơ ấy tố cáo Đào-Tá-Hán tội phạm húy đức tiên vương! Mà phạm húy thời trước là tối kỵ. Ngay như các môn sinh, dù khi đã đỗ đạt thành nhân, vào đời, hồi tưởng thời cắp sách, nhắc nhớ hoặc viết về thầy dậy học cũng chỉ dám đả động đến chức tước, học vị, tự hiệu thôi vậy mà Tá-Hán vô tình lôi đích danh Trịnh-Kiểm đưa vào mấy câu thơ của mình…Tá Hán sợ hãi vô cùng, bút sa gà chết, năn nỉ xin bỏ qua, nhưng viên xuất đội nhất định không chịu…Thế là quan trung quân nhận giáy tố cáo, bèn đòi Tá-Hán vào trước sảnh đường để ngài dậy việc. Cũng may quan thấy chàng lính trẻ diện mạo khôi ngô, nghĩ thương tình mới cho phép sửa hai câu đầu cho nhẹ tội: Trang quốc sĩ ai bằng họ Trịnh, Tỏ thần uy bình định hai châu! Hai câu thơ quan trung quân sửa giùm, khiến toàn bài thực sự trở nên thanh nhã không còn vẻ phạm thượng. Tá-Hán kính phục, trong lòng mừng rơn, cứ tưởng quan trung quân chỉ rành về binh pháp, kiếm cung thôi, mấy năm nay phục vụ dưới trướng có nghe đả động gì tới thơ phú đâu! Nhưng sự việc một người thuộc cấp nhỏ, chẳng am hiểu “khả năng” của vị chỉ huy của mình thì cũng thường. Nói cho ngay, không biết thời sau sẽ ra sao, chứ bấy giờ, cấp lãnh đạo binh đội phần lớn là những người xứng đáng, hữu tài, công bằng, nghiêm minh, khả năng đa hiệu, “tứ đại công khai” “Phép công là trọng niềm tây xá gì!”(ĐTĐ). Trường hợp Tá-Hán được quan trung quân phân sử minh bạch rõ ràng, dù bài thơ đã được giúp sửa chữa, cũng chả có cơ may được xoa đầu cho chút tiền lẻ, cất nhắc làm việc này việc khác, pháp bất vị thân, chỉ được giảm khinh, nghĩa là vẫn bị sử tội, vì một tên “ binh ba” mà dám đề cập tới họ Trịnh, một qúy tộc tột đỉnh quyền uy! Thế là sau khi quan trung quân tuyên bố, hình phạt được thi hành ngay tức thời: phải nằm xuống đánh hai mươi hèo; lại đuổi ra khỏi trại…thành ra từ đó Tá Hán chẳng còn dịp “Đầu đội nón da loe chóp đỏ, lưng đeo bì đạn rủ thao đen.” (HXH) Và, ngay lập tức, rơi vào tình trạng bốn không: Không đường tiến thoái, không đồng xu dính túi, không kế sinh nhai, không nơi nương tựa… nguyên do cũng bởi mấy câu thơ…”lãng xẹt!” Bọn lính trong ngoài lúc đó kẻ nào kẻ ấy đà tỉnh rượu, “nam vô tửu như kỳ vô phong” cổ nhân nói thiệt hay, cho nên nhìn vào đám đệ tử Lưu Linh bấy giờ thấy rất tội nghiệp, rất nản, nem nép lo sợ. Lo sợ vì có thể bị nắm đầu luôn thể, ghép vào nhiều tội, tội tứ đổ tường, tội tòng phạm, mà những tội này từ đời Lê đã theo pháp luật nhà Đường, ngoài ngũ hình, lại có lệ trừng phạt kẻ rượu chè cờ bạc rất nghiêm khắc lên tới 100 trượng, chặt ngón tay v…v…(Việt-Nam Văn-Hóa Sử Cương, Đào-Duy-Anh) nhưng cũng may chẳng ai sờ tới. Họ nhìn theo Tá-Hán thất thểu rời trại mà bó tay, bất nhẫn! Họ từ bốn phương tụ lại tình cờ gặp nhau đây, tháng ngày gần gụi, có khi tình bạn thêm nẩy nỏ khắng khít, có khi sẩy ra những xích mích không thể tránh nhưng đó chỉ là bình thường của chung đụng, ngoài ra dù sao cũng cùng một chiến tuyến, lý tưởng, thấy bạn bè hoạn nạn làm sao tránh khỏi mủi lòng, một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ, nhưng kiếp trấn thủ lưu đồn, sống chết còn phó mặc cho số phận, nào ai lo được cho ai. Bạn nhà binh tình nhà thổ.Cũng tình cảm đời thường nhưng đối diện cực nhọc hiểm nguy rồi mọi sự sẽ quên nhanh. Chắc chỉ ngày mai thôi, sẽ đâu lại vào đấy. Cuộc đời nhiều lúc chỉ vì một sự việc vô tình rất nhỏ, làm người ta phải quẹo sang một lối khác, không theo được con đường đã vạch ra lúc ban đầu. “Anh hùng mạt vân bán vi tăng.” Kẻ anh hùng khi đến ngõ bí, có tới một nửa thường xuống tóc đi tu. Đồ tể buông đao thành phật .Đến đây Đào-Tá-Hán kể như mạt vận rồi! Tiếc thay đoạn đời trước có gì đâu gọi là anh hùng, nên chưa cảm thấy chán chường nhân thế, chưa nhìn ra con đường một số các vị “anh hùng mạt vận” thường đi, nên còn dùng dằng lúng túng lơ ngơ chẳng biết tính sao! May mắn thay, trong lúc lang thang vô định, chân cứ lê bước mà chẳng biết về đâu, mặt trời đang ngả về Tây, thì thấy mấy đứa trẻ đang bu theo sau chiếc xe bò cọc cạch tiến lại gần. Tiếng reo hò, tiếng loa, tiếng trống càng lúc càng gần mới hay là họ đang quảng cáo cho gánh hát trình diễn buổi tối. Trên xe để cái trống đại, một người đi sau đang nện ầm ầm, còn một người nữa thì thỉnh thoảng lại ngừng kéo, dùng cái mo cau cuộn lại làm loa thông báo có gánh hát chèo mới dừng chân tại địa phương bắt đầu biểu diễn tối nay. Tá Hán thấy vậy bèn bước tới, cười cười làm quen rồi thẹn thùng ngỏ ý xin nhập bọn đi theo vừa làm việc lặt vặt vừa học nghề đóng trò kiếm cơm bất kể điều kiện thế nào cũng được. Hai người nhìn Tá-Hán với dáng vẻ chán chường mệt mỏi, nghĩ bụng, “thằng cha này” mới thất tình chăng! Nếu không thất tình sao lại đâm đầu vào nghề xướng ca vô loài này. Hai chàng nghệ sĩ đâu có biết Tá-Hán vừa trải qua cảnh tượng máu chẩy thịt rơi, lại bị đuổi ra sống nơi màn trời chiếu đất nên nó tạo ra cái hình bóng tiều tụy, thảm thương là thế. Ngược lại Tá-Hán, cũng cực chẳng đã, chứ thấy hai nghệ sĩ lù rù thật chẳng hấp dẫn chút nào. Từ đầu tới chân hai người, chỗ nào cũng in vết cát bụi giang hồ. Có lẽ họ chuyên sống về đêm nên buồn ngủ đã tạo ra cái hình dáng uể oải lờ đờ như vậy chăng! Nhưng rồi hai bên sau đó đã thông cảm, hai nghệ nhân to nhỏ với nhau một chập, ra dấu cho Tá-Hán theo họ về gặp bầu gánh chứ họ chỉ là nhân viên chẳng có quyền hành gì. Chiếc xe bò được điều khiển quẹo chữ U trên con đường đất nhiều sống trâu gồ ghề chật hẹp và thật là mừng! Khi về tới nơi, Tá Hán được ông bầu Ba-Đế thu nạp tức thời! Đúng là bĩ tắc biến. Người xưa nói câu nào là trúng ngay boong câu đó tức là…không trật vào đâu được! Nhờ bản tính thông minh, chịu khó, lại bảnh trai, nên, cứ vậy, nay đây mai đó, ngày nấu cơm rửa bát, sai vặt, đêm “ngồi cánh gà” quan sát, học hỏi…sau hai năm Đào-Tá-Hán đã nghiễm nhiên trở thành một diễn viên có hạng, gánh hát đi đến đâu anh ta cũng được chú ý, khán giả cảm tình, hoan nghênh, thương mến, nhắc nhớ,một phần nhờ anh biết cách nhập vai, diễn tả sống động và quan trọng là có yếu tố tất yếu của đời nghệ sĩ trình diễn : trẻ và đẹp…Đó là thời gian cuối những năm1560 ở Thanh-Hóa, cách đây, lúc hai quan lớn đang ngồi nói chuyện nơi đại sảnh cũng tới hơn hai mươi năm!
Hơn hai mươi năm trước, một năm mưa thuận gió hòa, dân làng làm đâu trúng đó, sau vụ gặt, thóc lúa nhà nào nhà nấy đã phơi khô, chất đầy trong lẫm, rơm rạ đánh thành cây la liệt sau vườn,trâu bò nằm thảnh thơi nhai lại, người dân làng Ngọc-Lâm huyện Lục-An Thanh-Hóa đã nghĩ đến chuyện vui chơi cho bõ những ngày mệt nhọc chân lấm tay bùn…và…ngoài những sự việc theo thông lệ thường xuyên hàng năm “tháng giêng cờ bạc , tháng hai hội hè…”, ngoài những tục lệ mổ heo, ngả trâu tế lễ, treo cầy bừa, đấu vật, đánh đu, bài chòi…một đoàn hát đặc biệt được mời đến ,thế là đám đào kép người ngợm lạ hoắc từ đâu kéo tới nườm nượp. Họ ăn mặc lòe loẹt, râu tóc bù xù dị hợm, họ bận rộn khiêng vác hòm rương trống kèn, đao kiếm lều chõng… thẳng tới khu vườn rộng thênh thang nhà ông tiên chỉ Vũ-Đạm dựng rạp, làm cho già trẻ trai gái rải rác bên đường, tụm năm tụ ba hào hứng vui mừng bàn tán. - Ơ mà dựng rạp đâu vậy cà? -Thì ngay trong vườn sau nhà ông tiên chỉ chứ đâu! -Tối nay bậu nhớ rủ qua tới sớm hai đứa chiếm chỗ gần xem cho rõ nghe! -Ý hổng được đâu! -Ủa, sao hổng được? -Tui hẹn người khác rồi chứ sao! Xí! Cô thôn nữ trả lời anh chàng tán tỉnh xong, cười khúc khích, bỏ đi…để ngẩn ngơ, lỡ bộ, thẹn thùng cho kẻ si tình ở lại. Ông Vũ-Đạm có nhà ngói cây mít, ruộng nhất đẳng điền thẳng cánh cò bay… chuyện đó là dĩ nhiên, chẳng kể ai cũng rõ. Làm tiên chỉ làng Ngọc-Lâm chứ nhỏ sao! Nhưng người ta, nhất là các thanh niên trai tráng, biết đến ông bởi ông còn đặc biệt có cô con gái tên Kim-Chi mới mười chin cái xuân xanh, đào tơ mơn mởn, nhan sắc xinh đẹp, chưa hứa gả cho ai. Mỗi lần cô ra giếng đình kín nác bọn trai bu lại như ong vỡ tổ…lải nhải nói thơ: Đêm qua tát nước đầu đình, Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen Em được thì cho anh xin… Những bận như thế, Kim-Chi không trả lời, vẫn thản nhiên vui vẻ…vẫn cười nói, chẳng hờn giận gì, vẫn coi mọi người như bằng hữu…thái dộ của nàng thật khôn ngoan và đáng quý, làm cho đám thanh niên lại càng mê như điếu đổ. Chim khôn ăn mận, ăn đào, Gái ngoan ăn nói ngọt ngào dễ nghe. Hình như lúc đó nàng cũng chưa thầm yêu, trộm nhớ ai., lòng xuân còn phơi phới, tình xuân còn mơ màng,…song, cho đến khi có gánh chèo đến tá túc và qua mấy đêm trình diễn thì nhiều sự thể đã thay đổi đột ngột, tâm tính nàng không còn giữ được nhịp nhàng, bình thản như xưa nữa…Kim-Chi cảm tiếng hát ngọt ngào của Tá-Hán. Mỗi lần nhìn Tá Hán xuất hiện trên sân khấu, quần áo là lượt bảnh bao, da phấn môi son, đẹp như Phan-An, Tống-Ngọc…Ôi! “người đâu gặp gỡ làm chi, trăm năm biết có duyên gì hay không!” bèn đem lòng thương mến, nhớ nhung…mới đầu còn thập thò e ngại nhưng khi thấy gần ngày đoàn hát cất gánh lên đường, nghĩ câu “muốn ăn thì lăn vào bếp” bèn nhờ bà vú nuôi dắt đến gặp Tá-Hán đánh bạo ngỏ ý muốn gá nghĩa trăm năm. Đi đâu cho thiếp theo cùng, Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thếp cam. Thoạt đầu mấy người gần gụi trong đoàn hát biết chuyện thì lấy làm ngạc nhiên xong lại vui mừng cho anh kép đào hoa may mắn. Mừng vì như thế là một cuộc đời sương gió sắp trở lại yên ổn bình thường,có thể còn may mắn hơn bình thường gấp bội tựa con chuột sa vào chĩnh gạo, từ nay chẳng phải lo toan gì về kế sinh nhai. Còn họ ngạc nhiên vì chẳng ngờ chỉ ít bữa chân ướt chân ráo Đào-Tá-Hán hiền lành ít nói, không biết bằng cách nào, đã chinh phục được con gái vị tiên chỉ làng Ngọc-Lâm. Y như anh chàng “Lủ khủ lù khù vác cái lu mà chạy.”. Tuy nhiên qua cơn mừng rỡ, họ lại nhìn nhau cảm thấy hơi buồn vì nỗi người bạn dễ thương nhất đoàn hát từ nay sẽ xa cách mãi mãi. Ông bầu gánh ba Đế thì ngược lại chẳng để lộ cảm xúc nào. Kiếm một nam diễn viên cho đoàn thực sự không đến nỗi khó khăn bằng một đào chính. Kinh nghiệm cho ông biết như thế. Các đào nương trẻ đẹp hầu hết ai nấy đều là những người sống chết yêu nghề. Thường khởi nghiệp cầm ca bằng cách trốn gia đình toa rập với bầu gánh bỏ nhà đi theo, nhưng không phải lúc nào cũng sẵn mấy người đẹp hết lòng yêu nghệ thuật như rứa, còn phía nam thì tương đối chẳng hiếm gì,nơi đoàn hát đôi khi chẳng người nọ thì người kia thế chỗ vẫn được. Ông Ba-Đế biết rõ điều đó, ông trạc 50 tuổi vóc gầy như con mắm khô sặc, khỏe mạnh, hai mắt sáng quắc, hàm râu bạc gió bay lơ phơ mỗi ngày phải có ba xị đế mới làm việc được, vì vậy mà ông có tên Ba-Đế. Trước kia bố ông nguyên là bầu sáng lập, nên ông có cơ hội phục vụ ngành nghệ thuật hát chèo từ khi tóc còn để trái đào, bao nhiêu thăng trầm lăn lóc, bao nhiêu kinh nghiệm điều hành, nghề nghiệp, từng bước từng bước, nay, khi thân phụ qua đời, thì đã đủ tư cách, khả năng và theo truyền thống “con vua thì lại làm vua” bèn lãnh trách nhiệm lên dẫn dắt anh em trong đoàn, ông chắc chắn đã trải qua nhiều chuyện chia tay như thế nên nghe tin Đào-Tá-Hán thì vẫn bình thản trước xị đế trên tay. Cuộc đời là thay đổi, có hợp phải có tan. Chuyện đó bình thường. Người gia nhập đoàn cũng nhiều mà kẻ bỏ bằng hữu với lý do này nọ cũng không ít. Y như luật đổi thay của tạo hóa thế thôi. Tá Hán sẽ dừng bước chân giang hồ, chấm dứt những ngày tháng phiêu lưu gập ghềnh nay đó mai đây, vui thì có vui, hấp dẫn thì có hấp dẫn, nhưng cũng có thật nhiều nhọc nhằn sương gió. Thế rồi phản ứng của Tá-Hán đã làm mọi người, trừ ông Ba-Đế, sửng sốt, ngạc nhiên. Vốn là kẻ đứng đắn, có trách nhiệm, anh đã một mực chối từ mặc cho Kim-Chi khóc lóc thảm thiết. Anh nói dứt khoát: -Xin cám ơn cô nương, tôi thân phận nghèo hèn, lại chưa có nhà cửa, tự xét chẳng thể kết duyên với con nhà tử tế. Người vú nuôi Kim-Chi thấy “bên đàng trai” có vẻ lơ là, chưa biết kết quả ngã ngũ thế nào. Tính nết Kim-Chi cứng rắn, tự lập, cả quyết…muốn thì muốn cho bằng được chứ ít khi chịu thua cuộc dở dang.Bà biết điều đó lâu rồi vì hai người lúc nào cũng gần gụi nhau như bóng với hình, nhưng thái độ của Tá-Hán không khỏi làm bà sững sờ, chẳng tưởng tượng được đó lại là sự thật.. Bà đinh ninh là khi được tin vui như thế hắn phải sung sướng tột cùng, không những o bế Kim-Chi mà còn phải chiều chuộng nịnh bợ bà nữa chứ, vậy mà cơm ăn đến miệng còn sĩ diện, không lẽ lại chửi cho thằng ngu ấy một trận. còn “cô chủ” của bà nữa chứ, cũng thuộc loại ngu luôn, bà cũng muốn chửi luôn, ai đời con gái hơ hớ... Thực chẳng ngờ! Bà thấy tội nghiệp, bẽ bàng cho cuộc đời con gái,nhưng bà biết bà không thể làm vậy được, thôi thì nuốt bồ hòn làm ngọt, và dù sao thì đến nước này bà cũng phải vừa giữ giá, vừa bênh vực Kim-Chi chứ như đã phóng lao rồi, không thể ngưng lại được.Bèn từ tốn nói rằng: -Kim-Chi dành dụm cũng được mớ vốn riêng, có thể sinh cơ lập nghiệp nuôi nhau được. Bà thương Kim-Chi, quyến luyến Kim-Chi, con nhỏ nuôi từ tấm bé, nay dù nó đã lớn nhưng vẫn được bà nuông chiều, bao nhiêu tình cảm suốt một đoạn thời gian dài làm sao mà mỗi lúc nỡ dứt đi. “Thương thì thương cho chót.” Nên tiếp theo sau câu nói như mở ra một lối thoát, một tương lai, cho Tá-Hán có thể thay đổi ý kiến dễ dàng…vậy mà cũng chẳng thấy tình hình lay chuyển gì, khiến bà lại phải tiến thêm một một bực nữa, tỏ ý nguyện, nếu đồng ý, bà sẽ đi theo trông nom giúp đỡ nhà cửa cho hai vợ chồng suốt đời, “Một mẹ già bằng ba mẫu ruộng.” Đến đó Tá-Hán phải thuân, mới lại người ta đâu phải gỗ đá, nên thật sự cũng khó cứng rắn vô tình trước một sắc đẹp nơi thôn dã dản dị mà cao sang, khỏe mạnh, da trắng, môi hồng, mắt bồ câu, đầu chim ngói… Biết tin Kim-Chi và Đào-Tá-Hán “phải lòng nhau” ông bà tiên chỉ bàng hoàng! Hình như cả hai vợ chồng vừa ở trên trời rơi xuống! Bà khóc sướt mướt như đánh mất một cái gì, nhưng thực sự thì bà cũng không biết là cái gì! Con bà hơ hớ, đâu có ế chồng, mới đây quan phủ sở tại, nhà có ba cậu ấm lớn tồng ngồng đến tận nơi cầu thân, ông bà chỉ cười cười chẳng hứa hẹn gì, bây giờ tự nhiên có “thằng “rể là kép hát thì bà còn dám nhìn mặt ai vì đâu là “môn đăng hậu đối” hở giời? Ông nhìn bà thương hại, ông cũng thực sự bối rối, sự việc ập tới đột ngột quá, giá đừng mời đoàn hát về làng…Bây giờ đang phân vân, chẳng biết hành sử ra sao, chuyện không chì hoãn được, nếu không tính ngay, thì cô con gái rượu của ông nó dám cuốn gói đi theo tiếng gọi ái tình lắm! Vốn dĩ người từng trải, am hiểu việc đời vậy mà nghĩ mãi cũng chưa biết giải quyết ra sao. Ông biết chuyện yêu đương tuổi trẻ là rất khó ngăn cản, ngăn cản càng làm cho kẻ trong cuộc quyết tâm chống đối, giống như người buộc sợi giây vào cổ con lợn kéo tới chắc chắn nó sẽ cưỡng lại và đi thụt lùi, đứt giây! Chuyện yêu đương tuổi trẻ là một sự việc, ngoài hai kẻ trong cuộc thì chẳng áp lực nào có thể “xía” vô được, và đố ai có thể khuyên bảo gì được. Aí tình chẳng có phân tích, phải trái, nó keo sơn không sức mạnh nào có thể dứt ra được. Tại sao một người như thế lại có thể đem lòng thương yêu một người như thế? Xin đừng lấy làm ngạc nhiên mà đặt câu hỏi như thế! Chuyện tình cảm dễ gì giải thích, mổ xẻ, phân tích thiệt hơn. Trong trường hợp này hoặc hầu hết những trường hợp tương tự, là người ngoại cuộc, hãy bình tâm nghe một câu hát bầy tỏ ý kiến khá trung thực về tình yêu đôi lứa rất thấm thía, bình tĩnh, cởi mở, nhẹ nhàng của nhạc sĩ Vân Tùng: “Ai thương yêu ai, đó chỉ là tình, của mỗi con người.” Nhớ lại hồi còn nhỏ, trường hợp chính ông cũng tương tự vậy thôi! Nhà cửa nghèo hèn, nhưng khi “ai đó” đã thương ông rồi thì dù chông gai ông đâu sợ gì! Họ hàng “nhà gái” muốn bầy đặt, bẻ hành bẻ tỏi làm khó, xin cứ việc! Ông tuyên bố công khai là sẽ cố gắng hết mình làm vừa lòng mọi người, mọi chuyện khả năng ông có thể làm được. Nhưng bảo đừng lấy con gái “ người ta” thì, xin lỗi, không thể được. Ông rất hãnh diện về “đường lối” đã vạch ra. Ông tranh đấu đến cùng và ông đã thắng…do đó nay mới có Kim-Chi…Đúng là bố nào con nấy, ông nghĩ, rồi phen này bọn nó cũng thắng mình thôi! Bây giờ ở tuổi thất thập cổ lai hy, sự đời chẳng còn sôi nổi như xưa, đôi lúc ông lại nghĩ khác,yêu đương thực tế chẳng qua chỉ là lòng khao khát muốn khám phá cái thái độ của nhau lúc ban đầu, rồi thì mọi sự tiếp diễn, ngày nọ ngày kia người ta gọi là thường nhật, hoặc đúng hơn là bình thường như đói thì ăn, khát thì uống…tình sẽ bớt đi để thêm vào đó cái nghĩa bù đắp vào, trái tim chẵng còn rung động mãnh liệt, sự cần thiết chẳng còn gay gắt như tưởng tượng khi mới bắt đầu. Cho nên, chuyện hồi trẻ sôi nổi, quan trọng nay thấy cũng thường. Mình có lỡ yêu ai hoàn cảnh chẳng được toại nguyền, nhưng “người ta” biết mình yêu và kẻ đó cũng yêu mình thế là đủ “Tình có nghĩa gì đâu nếu là không lưu luyến thuở ban đầu.” Có khi vậy còn đẹp hơn lấy được nhau. Song con ông đâu đã già như ông hiện thời…cho nên hẳn là cô ta đã nghĩ khác, cô ta nghĩ như ông ngày xưa, như ông hồi còn tràn đầy nhựa sống. Sau mấy đêm ngày đắn đo suy nghĩ hơn thiệt, nay cho dù không vừa bụng, cuối cùng ông cũng bắt trước bà vú nuôi Kim-Chi, “ngậm bồ hòn làm ngọt.”,bắt tay ngay vào việc giải quyết một cách sáng suốt, nghĩa là…nghĩa là tổ chức đám cưới cho con gái đàng hoàng; Đồng ý để bà vú đi theo hai vợ chồng: Cho thêm ít của hồi môn để các con làm vốn lập nghiệp lúc ban đầu. Có lẽ đấy là số trời, Đào-Tá-Hán bèn lạy tạ cha mẹ vợ rồi sau đám cưới dẫn Kim-Chi về làng Hoa-Trai mua đất, cất nhà, tậu ruộng, cầy cấy…xây dựng cuộc đời mới, năm sau thì vợ chồng sinh được mụn con trai đặt tên là Đào-Duy-Từ.
Quan thái phó kể đến đây thì ngừng lại, vẫy gia nhân pha thêm một tuần trà mời khách chén nước nóng. Nguyễn-Hoàng đang say sưa theo dõi, nay mới có cơ hội xen vào một câu “nối điêu”: -Bẩm quan lớn, đoạn đời của Tá-Hán tuy gập ghềnh nhưng đến đây còn là may mắn lắm. Chẳng hay hậu vận của hắn sẽ ra sao? Nguyễn-Hữu-Liêu lại không trả lời. Ông ta là quan lớn lâu ngày, sớm tối toàn nghe tâng bốc tít tận mây xanh nên không mấy lưu tâm tới vấn đề giao tế, đưa đẩy, lịch sự…làm cho câu nói của Nguyễn-Hoàng như một viên sỏi người đứng trên cầu buông rơi xuống mặt nước chỉ gây ra chút xao động nhẹ rồi thôi! So ra thì giữa Nguyễn-Hữu-Liêu và Nguyễn-Hoàng xét kỹ cả bề ngoài bề trong chưa chắc ai đã hơn ai., họ chẳng nằm cùng hệ thống hành chánh ngang dọc nào cả. Đại thần Nguyễn-Hữu-Liêu nhiều công trận, đánh đông dẹp bắc, lại mới được cử làm chánh chủ khảo khoa thi hội, như thế có thể gọi là văn võ song toàn. Còn Nguyễn-Hoàng với trọng trách đang trấn giữ một vùng biên ải “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!” lại là cậu ruột chúa Trịnh-Tùng thì đâu phải hạng nhỏ. Nhưng Nguyễn-Hoàng vốn khôn ngoan, tính tình hòa nhã nên không nói gì, đợi khi chủ nhà cạn chén nước lại tiếp tục.
Đào-Duy-Từ được sinh ra như thế và nhớn lên dần dần trong hoàn cảnh như thế…Ngôi nhà gạch ba gian hai trái lợp ngói âm dương còn đỏ như son, những luống cải xanh mơn mởn sớm chiều mời gọi lũ bướm từ đâu hẹn hò nhau chập chờn bay lượn nhởn nhơ. Cây bưởi trước thềm đã trổ những cái gai nhọn tua tủa dài cỡ ngón tay lấp ló bên mấy trái non ẩn hiện sau đám lá xanh, dầy…gai này dung nhể ốc nhồi luộc với lá chanh chấm tương gừng ăn thì tuyệt, nhưng nghĩ đến chuyện “trèo lên cây bưởi hái hoa” bị gai đâm vào da thịt thì, eo ôi, thật là rùng mình! Vào mùa hè, rau cỏ mướp cà la liệt ngoài vườn ăn không hết còn đem cho hàng xóm lấy thảo. Và khi mấy khóm cúc thi nhau nhuộm vàng một giải trước hiên báo hiệu mùa thu tới, báo hiệu sắp đến kỳ có gió bấc, mưa phùn, khi ấy, giữa hai lần bề bộn công việc, người ta thường bắt gặp Kim-Chi dừng tay ngước nhìn những chiếc lá tre bay loăng quăng. Nghe tiếng kẽo kẹt khi hai thân cây tre cọ vào nhau ngả nghiêng ngoài bờ dậu, thừ người nghĩ ngợi, không hẳn là vui cũng chắc chắn chẳng phải là buồn mà hình như là vì nàng vừa bắt gặp sợi thời gian đâu đây đang trôi theo gió.. Những lúc như thế, Kim-Chi thường “cao hứng” chạy vù ra quán hàng tạp hoá độc nhất của chú Chệt đầu làng, mua cút rượu đem về dúi vào tay chồng để chồng khỏi ở không, khỏi ngồi ngóng trời ngáp dài ngáp ngắn. Đào-Tá-Hán vốn hiền lành ít nói nên khi hoàn tất những công việc đồng áng nhà cửa hàng ngày anh hay yên lặng ngồi trên bộ phản gỗ lim kê giữa nhà hút thuốc lào vặt, suy nghĩ những gì nào ai hay. Thời gian nhàn hạ ấy rất ít, cử chỉ ưu ái của vợ cũng không nhiều, nên lần nào có rượu anh cũng ngạc nhiên. Sự ngạc nhiên khiến anh trở nên nhanh nhẹn, anh đỡ be rượu trên tay vợ, mỉm cười, rồi lui cui thổi lửa, nướng thêm khúc cá khô, khề khà, ngâm bài ngũ ngôn cổ thi Tứ-Thời, nhắc đi nhắc lại mãi một câu “Thu ẩm hoàng hoa tửu!”…cho nàng nhìn chồng buồn cười, âu yếm bảo: -Bố Từ say chưa mà cứ ngâm nga mãi một câu thế? Sốt cả ruột! -Đâu có say! -Hay là bố Từ quên hết rồi! Nếu quên thì phải mở sách ra coi lại, văn ôn vũ Luyện mà lỵ! -Bài thơ có bốn câu, mỗi câu năm chữ,quên sao được, mùa thu uống rượu Thì một câu ấy đủ rồi! -Bố Từ nghĩ đủ rồi ư, thế chẳng có người mua rượu thì lấy rượu đâu để Uống vào mà nhìn phong cảnh mùa thu và ngâm thơ nhỉ! Bao giờ Kim-Chi cũng vậy, làm được việc gì cho chồng thì khoái chí, không muốn để yên, cho chồng rảnh rang thưởng thức trọn vẹn.Chung sống bao nhiêu năm Đào-Tá-Hán hiểu ngay là vợ đang kể công với mình, song chỉ cười, không nói gì, làm gì. Hắn biết phải làm gì, nói gì chứ! Nhưng nghĩ chưa phải lúc! Như ta đã rõ, Đào-Tá-Hán cũng giống như hầu hết các đấng mày râu từng bước qua cửa Khổng sân Trình, có rượu thường có thơ, nhưng cũng may từ khi rời quân ngũ hắn chỉ ngâm thơ khi có rượu chứ chẳng làm thơ như trước cho nó an toàn với cảnh vui thú điền viên. Xuyên qua cái kinh nghiệm bản thân gần mười năm xa lắc xa lơ kia…thỉnh thoảng sực nhớ lại, làm sao quên được hình ảnh quan trung quân, những khuôn mặt bạn bè, bữa nhậu, và, nhất là hai mươi hèo tàn nhẫn! Kết quả là bây giờ hắn đã rút tỉa được bài học vô cùng thấm thía, thì ra chuyện làm thơ, ngoài sự cần đến cái năng khiếu, chút kiến thức, cái lòng rạt rào muốn bầy tỏ, cái tâm tư muốn ký thác, cái ý chí muốn chống chọi với thời gian, không gian, với sự hiện hữu nhỏ bé của con người…cũng còn thật là nhiều nỗi khó khăn, trở ngại chứ chẳng dễ dàng gì. Đó là hắn mới chỉ làm thơ tiêu khiển trong lúc trà dư tửu hậu thôi đấy, chứ chưa kể tới tham vọng của văn chương có tính cách”Văn dĩ tải đạo” cao xa hơn mà hắn nào dám nghĩ tới. Trường hợp này, thi nhân nói riêng và người làm văn hóa nói chung, lại càng phải cẩn thận, đắn đo, lưu ý đến nhiều điểm quan trọng khác nhau và nên luôn luôn tâm niệm câu châm ngôn mọi người thường nhắc tới nhưng chưa rõ ai là tác giả “… Văn hóa mà nhầm thì hại muôn đời!” Thấm thoát thế mà sáu năm đã trôi qua, sáu năm chưa thể quên hẳn ánh đèn tiếng nhạc, chẳng biết ai là kẻ đã thay mình diễn chung với cô đào lẳng Mỹ-Phượng-Linh trong màn Lữ-Bố hý Điêu-Thuyền, Sáu năm đoàn hát lưu lạc những đâu đâu…Đào-Tá-Hán đã hy sinh tất cả để đổi lại sáu năm êm ấm, cửa nhà, vườn ruộng, vợ con…nhưng ông trời sao éo le chi bấy! Với sáu năm hương lửa đang nồng bỗng nhiên một việc hệ trọng sẩy tới không ai lường trước được, đó là, Đào-Tá-Hán ngọa bệnh đột ngột qua đời khiến cho Kim-Chi phải một mình cáng đáng mọi chuyện, cũng may còn có vú nuôi gần gụi hôm sớm, chứ tình cảnh này một mình nàng bơ vơ lại thêm đúa con măng sữa ,mới năm tuổi chưa biết buồn với vành khăn trắng cuốn trên đầu thì thực chẳng biết sẽ xoay trở tính toán làm sao. Đào-Tá-Hán mệnh yểu kể như một thất bại đầu tiên đối với cuộc đời từ khi tự lập của Kim-Chi. Thất bại này do trời cao giáng xuống như số phận an bài nào ai tránh được, nào ai trách ai được.Ông bà tiên chỉ Vũ-Đạm thêm môt lần đau khổ, xót thương… ngỏ ý mong muốn con gái trở về làng xưa cho gần gụi sớm hôm , tối lửa tắt đèn nhưng Kim-Chi không chịu. Bố mẹ mới mở đầu: “Thôi con ạ!”nàng đã nghẹn ngào, nước mắt đầm đìa…gục mặt vào hai bàn tay…không còn nghe, hiểu và nói được lời nào Làm sao Kim-Chi bỏ đi khỏi chốn này. Cuộc đời đang êm đềm hiền hòa như nước chẩy trong lòng sông nhỏ, bỗng nhiên bước sang một khúc rẽ, sôi sục, lên thác xuống ghềnh đầy bất trắc, tương lai mờ mịt…Nàng biết lắm chứ, nhưng còn bao kỷ niệm, sáu năm chung sức, vui buồn và nhất là bây giờ nấm mộ của người chồng yêu quý vẫn nằm đó! Nếu chẳng vì nàng thì Đào-Tá-Hán dễ gì chịu dừng bước chân giang hồ. Sự thực đây là khoảng thời gian đầy khó khăn, thử thách cần vượt qua. Vào những buổi chiều rảnh việc, đôi lúc nàng thờ thẫn cả người, khi ngước nhìn lên, Kim-Chi vẫn không thể ngờ rằng, trên mặt tủ thờ gia tiên kê trịnh trọng ở gian nhà giữa kia, nay lại có thêm bài vị của Đào-Tá-Hán, mới gần gụi hôm nào mà giờ im lìm, phảng phất, xa cách sau lư hương với những cọng chân nhang bụi tro mờ nhạt…mong gì còn có ngày gặp lại trên đời. Ai làm cho dở dang Giời, Mà Giời làm dở dang tôi thế này. Vốn dĩ là một người cứng rắn và tự lập, Kim-Chi đã can đảm đối diện trước nghịch cảnh, hết sức tần tảo nuôi con ăn học. “Dậy con đèn sách thiếp làm phụ thân.” Bù lại, như một an ủi Đào-Duy-Từ xiêng năng học tập, thông minh dĩnh ngộ, học một biết mười, năm mười bốn tuổi được mẹ xin cho vào thụ giáo ông hương-cống Nguyễn-Đức-Khoa, và chẳng bao lâu thầy đồ nức lòng khen ngợi tài học của Duy-Từ. Khen xong ông lại tiếc vì là con kép hát nên về sau không thể theo đường cử nghiệp., học là học để mở mang kiến thức mà thôi. Thật là đáng tiếc cho nhà cho nước! Kể đến đây, quan thái phó Nguyễn-Hữu-Liêu đổi thế ngồi cho đỡ mỏi, chiêu hụm nước nhấp giọng rồi nhìn Nguyễn-Hoàng tâm sự: -Thuở trước ngồi trên mình ngựa suốt ngày rong ruổi, chinh chiến không hề hấn gì nay mới chưa đầy một khắc đã ê ẩm bên nọ bên kia, xin lỗi, quận công bỏ qua cho. Nguyễn-Hoàng kính cẩn đáp: -Có chi đâu! Tôi cũng vậy, bọn mình lên lão cả rồi, hôm nay được nghe quan thái-phó kể chuyện thú vị vô cùng. “ Bọn mình lên lão cả rồi!” Nguyễn-Hữu-Liêu và Nguyễn Hoàng tuy lớn tuổi nhưng hàng ngày bồi bổ sơn hào hải vị, sâm nhung Cao-Ly ngâm rượu trong uống ngoài thoa nói vậy chứ cũng còn khỏe mạnh hơn người, nếu không có cái mục “Đêm năm canh năm vợ ngồi hầu “ thì dễ thua ai. Quan thái phó chưa tiếp tục câu chuyện dang dở, ngài cũng không muốn nói thêm về tuổi già, cái tuổi lúc nào cũng nghĩ tới, cũng tiếc nuối dĩ vãng, mà trình bầy một ý kiến cá nhân về mục đích của sự học hành cũng rất hay, theo ông, “Nguyên sự học ngày xưa có cái mục đích chân chính là học cho hiểu đạo lý, biết phải trái và luyện tập tâm tính cho thành người có tiết tháo và có phẩm cách cao quý để gặp thời thì ra giúp nước giúp dân, nếu không thì làm người ngay chính trong xã hội. Sau dần dần vì sự sinh hoạt ở đời, sự học thành ra cái học chuyên về mặt cử nghiệp, nghĩa là cái học chỉ cốt lấy đỗ, ra làm quan.” ( VNSL.). Nguyễn-Hữu-Liêu tiếp tục, thư sinh cắp sách bái thầy chỉ mong có ngày đỗ đạt, để vinh thân phì gia, để một người làm quan cả họ được nhờ và để thực hiện bằng được cái ước ao “ Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau”. Kim-Chi cũng như hương cống Nguyễn-Đức-Khoa, cũng như hầu hết bàn dân thiên hạ chẳng hề biết đến ý nghĩa cao cả của học vấn, chỉ theo quan niệm thông thường, mục đích việc sôi kinh nấu sử là địa vị, quyền cao chức trọng lắm bạc nhiều tiền. Mặt khác bà cũng biết thêm là có nhiều người công danh lận đận, thi hoài trượt mãi đến nỗi phải đổi cả họ tên những mong làm khác đi như thế may ra có đỗ đạt như ai. Nên, gần đến kỳ thi hương, bà nẩy ra ý nghĩ, rồi cố gắng xoay món lễ đem biếu viên xã trưởng Hoa-Trai tên Lê-Minh-Phương nhờ y cấp giấy đổi tên cho con ra Vũ-Duy-Từ, cha Vũ-Như-Lâm, mục đích để chẳng còn ai biết là con kép hát, không có quyền tham dự thi cử. Lưu-Minh-Phương thoạt nhìn thấy Kim-Chi chạc tuổi ngoài bốn chục mà nhan sắc vẫn mặn mà thì hơi tỏ vẻ ngạc nhiên, tự nghĩ, sao người trong quản hạt bao lâu mà hắn chẳng hay. Hắn vừa xem đơn từ, chốc chốc lại nhìn Kim-Chi gật đầu tỏ vẻ khoan khoái. Hỏi han vài câu bâng quơ, “Gái một con trông mòn con mắt.” Làng Hoa-Trai bao nhiêu xuất đinh cần lấy vợ, trai tân cũng có, gà trống nuôi con như hắn lại càng nhiều. Mà sao “cây quế giữa rừng “ này chưa có ai bưng về thật lạ. Khó khăn chăng? Cái đám “liền ông” trong làng rõ vô tích sự, quê mùa cục mịch.Hắn vẫn khinh thường họ. “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ” chắc hắn phải nhào vô xem sao. Hắn mỉm cười lấy bình tĩnh, xoa hai bàn tay vào nhau và thả nhẹ một trái bong bóng: -Việc này tiếng thế cũng nhiều khó khăn, phải kê đệm chỗ nọ chỗ kia, nhiều công lao… Hắn lại nhìn Kim-Chi mỉm cười, Kim-Chi cũng nhìn hắn cười. Cười qua, cười lại, cởi mở, cầu tài, biểu lộ. Hắn biết sự biểu lộ của người đối diện chứ, nhưng nhiều phần đương đơn vô tình chưa rõ xã trưởng cười gì, muốn gì, cho đến khi Lưu-Minh-Phương nghiêm nét mặt nói lên sự mong đợi của mình, “Nếu chịu đổi tên con ra họ Lưu với tên bố là Lưu Minh-Phương thì hắn xin ráng!” -Ơ hay tại sao phải đổi ra họ Lưu nhỉ? Kim-Chi hiểu,cao giọng hỏi lại và xã trưởng Hoa-Trai cũng không phải tay vừa -Không đổi thành họ Lưu thì thôi,nói là nói thế chứ có ai bắt buộc ai đâu? Thế ơ hay tại sao tôi cũng phải cấp giấy đổi họ đổi tên nhỉ? Lưu Minh Phương vừa dứt lời thì nhìn Kim-Chi khiêu khích, đo lường, say đắm.Thấy vậy Kim Chi nghiêm nét mặt, nhưng không biết nói gì. Bà cố dằn cơn giận vì trong trường hợp này chẳng thể mắng cho hắn vài câu trước khi đứng dậy bỏ về. Chắc hẳn Lưu-Minh-Phương không hay bà là con một vị tiên chỉ dù ở xa nhưng khổ nỗi lại biết rõ bà đang cần hắn mới kẹt chứ! Sự đời đôi khi giống như canh xóc đĩa, khi chưa lật bát, nào biết xấp ngửa ra sao, từ lúc tay cầm lá đơn còn đứng ngoài ngưỡng cửa công, Kim Chi, cũng như mọi người dân đen thấp cổ bé miệng cứ yên chí, thông thường nếu chuyện khó khăn mè nheo sẩy ra thì giải quyết bằng tiền bạc là xong và nếu vậy thì cùng lắm bà sẽ bán nhà, bán ruộng để lo cho con, cái bản chất của xã hội An-Nam bao giờ nó vẫn là như thế, không có gì đáng ngạc nhiên cả. Vậy mà ai dè sự thể lại quẹo sang một ngã rẽ khó sử khác. Bà nghĩ vấn đề hắn táo bạo đột ngột đưa ra chắc chắn không thể chấp nhận được rồi. Từ ngày người chồng hiền lành yêu quý không còn nữa bà đã từng gặp một vài trường hợp bị quấy nhiễu rồi, để đối phó bà thẳng thắn cự tuyệt là xong, nhưng chưa bao giờ bà tưởng tượng đến như chuyến này. Chuyến này có vẻ rắc rối khó giải quyết hơn nhiều. Đã đành mỗi người phụ nữ một hoàn cảnh và ai mà chẳng có sẵn một tý vốn trời cho, nhưng riêng bà, cái vốn ấy chỉ là để hãnh diện, trân trọng, giữ gìn, “Trinh nữ bất canh nhị phu.” Nhất định là chẳng thể đem chút bảo vật quý hóa đó ra đầu tư việc này việc khác. Để phá tan cái bầu không khí yên lặng khó chịu ấy, với kinh nghiệm làm xã trưởng lâu năm, dù thấy là có chút gì không ổn, nhưng giữa người lớn với người lớn, mới lại chót phóng lao đành phải theo lao cũng như đang cưỡi cọp dễ gì mà xuống được. Lưu-Minh-Phương bèn nói thẳng ra, nửa như dứt khoát, nửa như dỗ dành, đại ý, đổi họ Vũ hay họ gì cũng được, nếu chịu lấy hắn thì hắn mới… nhận lễ. Đây là lần đầu Kim-Chi đến văn phòng hội đồng xã. Có điều lạ là tại sao hắn lại dám sỗ sàng vội vàng như thế! Những người làm việc công bộc của dân đều như thế sao? Không phải vậy, xin đừng vơ đũa cả nắm. Đó chỉ là cái tật của Lưu Minh-Phương. Cái tật này đáng trách và không đáng trách. Đáng trách vì hắn không biết phân biệt việc công và việc tư, đã lãng phí thời gian công vụ để mưu cầu tư lợi. Đáng trách vì trước vấn đề tình cảm với một đời vợ trước và hai cô con gái mà hắn vẫn còn tỏ ra thiếu kinh nghiệm chinh phục đàn bà, chẳng biết chiến thuật “tàm thực” vô cùng hiệu quả của cổ nhân là cái gì Nhưng mặt khác, xét ra cũng không đáng trách, vì đây là cái tật chung của hầu hết quý vị đực rựa đông tây kim cổ. Qúy vị đực rựa đáng kính nhiều khi xất bất xang bang cũng vì cái tật tối mắt này. Còn một điểm Lưu-Minh-Phương được hưởng giảm khinh vì hành động của hắn “đứng đắn “, thực tâm xây dựng. Với hai đứa con gái cùng tới tuổi cập kê biết chúng sẽ “về nhà ai” lúc nào, giá mẹ chúng đừng giữa đường đứt gánh vội bỏ bố con hắn trong cảnh gà trống nuôi con từ mười mấy năm nay. Hồi ấy sau khi ma chay cho vợ, Lưu Minh-Phương an phận ở vậy trọn kiếp nuôi con, hắn tự nhủ thế, hắn nghĩ , cũng không còn thiếu thốn gì, mọi chuyện ở đời đã từng trải, chẳng còn gì tha thiết, ước ao. Tục huyền chỉ thêm ăn năn, cắn rứt đối với vong linh người vợ yêu dấu, người gần trọn đời vui buồn no đói có nhau, người cùng nhau tạo bao kỷ niệm riêng tư, trân quý luôn ghi khắc trong lòng, nhưng không bao giờ có thể thổ lộ với ai được và sẽ chẳng bao giờ quên được cho mãi tận cuối đời… Có nhiều người nghe hắn “tuyên bố” lập trường quyết tâm ở vậy thì không tin, nhưng hắn đinh ninh điều đó chắc như đinh đóng cột và sẽ chẳng bao giờ thay đổi. Xong chỉ ít năm gần đây thì hắn lại ngạc nhiên khám phá ra một điều là chính hắn cũng nghĩ khác. Tình xưa còn đó nào có gì thay đổi, và nếu bước thêm bước nữa thì cũng chẳng có gì đổi thay, Cần một thời gian chay tịnh để biểu lộ tình người là bổn phận, là phong tục cao đẹp nên giữ gìn. Chung thủy cực đoan có ích lợi gì chăng! “ Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” (What therefore God has joined together, let no man separate.” ( M.10.9 ) Đó là một sự kiện vô cùng quý hóaThiên Chúa đã rao giảng như thế nên con chiên nơi nơi nhờ vâng lời triệt để, về phương diện xã hội, nó ngăn cản bớt tình trạng đỗ vỡ của gia đình, tạo lòng nhịn nhục thương yêu lẫn nhau, nhưng sao đã xe tơ kết tóc, đã phối hợp hai thân xác hai tâm hồn làm một, đã để cho họ sống nương tựa nhau, thì khi lìa đời giá bằng cách nào Thiên Chúa ban phép để họ cùng dắt tay nhau đi vế thế giới bên kia một lượt thì vừa lãng mạn, vừa trọn tình trọn nghĩa, đẹp đẽ bao nhiêu. Trời xanh bầy ra cảnh ly tan làm vất vưởng , hụt hẫng, phiền toái cho cuộc sống người ở lại. Chỉ nguyên sự bơ vơ thôi cũng gây ra nhiều ai oán. Chuyện cha chết trước con, vợ trước chồng người đời cho là thuận cảnh. Nhưng đối diện thực tế bao nỗi khó khăn, kéo dài cuộc sống lẻ loi tới mãn đời dễ mấy người chịu đựng được. “Rổ rá hư hao thì cạp lại, Vung nồi tròn méo úp cho xong.” (Thơ NPL.) Cần phải có sự điều chỉnh chứ. Ông Bành Tổ sống hơn tám trăm năm không lẽ chỉ một người nữ sửa túi nâng khăn. Lưu-Minh-Phương không tin như vậy.và nếu trời để hắn làm người với khoảng thời gian dài như Bành-Tổ chẳng biết hắn sẽ phải trải qua bao nhiêu lần khóc vợ. Nhược giao ngã tho như Bành-Tổ, Bát bách Xuân Thu kỷ khấp huyền. Nguyễn-Khuyến Bây giờ khỏe mạnh đã đành, mai mốt mắt mờ chân chậm lấy ai nương tựa sớm khuya…nên là kẻ nhìn xa trông rộng, hắn đang lưu tâm kiếm một người cho sớm tối có nhau, mục đích cho nhà cửa đỡ quạnh quẽ, một công đôi việc, lại cũng mong có mụn con trai để khỏi mặc cảm “bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại.” Nhưng để tâm kiếm mãi, kiếm mãi…mà chưa đi đến đâu. “nó đuổi ta, ta xa nó, nó xa ta ta đuổi nó…” mất thì giờ cho tới lúc gặp Kim-Chi! Lưu-Minh-Phương lại vừa cười cười trọc giận Kim-Chi vừa lập lại câu nói: -Ơ hay! Tại sao tôi lại phải đổi họ đổi tên cho người ta nhỉ? Kim-Chi im lặng.Cuối cùng chẳng lẽ cứ ngồi thi gan cùng Lưu-Minh-Phương Lỳ lợm, cứ nhìn hàng dậu ngoài bờ sân với những bông hoa dâm bụt đỏ ối rung rinh trước gió…Kim-Chi bèn bực dọc ngúng nguẩy đứng dậy ra về làm như sẽ chẳng bao giờ thèm trở lại. Và, chỉ mấy hôm sau, vẫn bực dọc, nhưng Kim-Chi đã trở lại vì cuối cùng thấy ngày thi không còn xa, chẳng có phương cách nào khác,bà phải tạm thời giả vờ bẽn lẽn ưng thuận và đưa ra một kế hoãn binh là mọi sự xin đợi lúc con đỗ đạt mới thi hành. Lưu-Minh-Phương biết tình thế chẳng thể kỳ kèo hơn được nên cũng phải bằng lòng. “Lo gì việc ấy mà la, kiến trong miệng chén lại bò đi đâu.” (ND), bèn vê tròn mấy sợi thuốc lào, đễ vào nõ cái điếu bát, rút cái đóm nứa châm lửa rít một hơi, tạo ra truỗi âm thanh lọc xọc nhưng đặc biệt lần này hắn nghe , tưởng như điệu nhạc reo vui, chiến thắng. Hắn chậm chạp rút tờ hoa-tiên đựng trong ống quyển, đổ chút mực tầu đã pha sẵn vào cái nghiên mực bằng đá Đông-Triều có khắc hình con khỉ thật nhỏ, thật ngộ ngồi chồm hổm trên bờ…Thế là sau đó Đào-Duy-Từ đã trở thành Vũ-Duy-Từ với đầy đủ giấy tờ hộ tịch, bình thản lều chõng đi thi như ai!
6. Khoa thi Hương năm Qúy-Tỵ (1593) đời vua Lê-Thế-Tông (1573-1599) Vũ-Duy-Từ đỗ Á-Nguyên, lúc ấy ông 21 tuổi. Kim Chi được tin mừng rỡ, việc đầu tiên là nhờ u già đến kinh đô đưa thêm cho con ít tiền, gửi thêm cho con ít cá khô lúc nào cũng có sẵn trong cái mo cau cài trên gác bếp, thêm vài quả cam sành hái vội ngoài vườn, dặn con phải ở lại dùi mài kinh sử dể sang năm thi hội rồi chẳng biết làm gì, chạy ra chạy vào như gà mắc đẻ. Cuộc đời bà có lẽ đây là giây phút sung sướng nhất, tiếc là chẳng thể bầy tỏ được nỗi lòng mừng rỡ cùng ai, bà nhìn lên ban thờ gia tiên thành kính, hai tay chắp trước ngực như hãnh diện đã làm tròn bổn phận một người vợ, một người mẹ…và trong khi bao nỗi vui dồn dập kéo đến làm cho bà quên mất một điều… Điều ấy xã trưởng Lưu Minh Phương không quên. Ôi làm sao quên được! Cái “Nhất thốn thổ” tuyệt vời tơ tưởng bao lâu, sắp sửa chẳng còn là hình ảnh mờ ảo nữa.Sau những giờ phút giải quyết việc làng việc xã mệt nhọc, nằm trong căn buồng vắng vẻ, chiều chiều lơ đãng nhìn con thạch sùng bò trên kèo nhà, Lưu-Minh-Phương vẫn luôn hy vọng, ước mơ…Hắn kiên nhẫn đợi chờ từng ngày từng tháng và hôm nay, thật là quan trọng, phải gặp, hai mặt một nhời, xem “người ta” dự tính tiến hành ra sao. Ông viết một cái trát sai thằng mõ đem đi, đại ý báo cho Kim-Chi phải tới nghe bản chức dậy việc. Đối diện Lưu-Minh-Phương, hôm nay bà mặc quần áo đẹp đẽ hơn trước với áo tứ thân mầu vỏ đỗ, thắt bao xanh, yếm đỏ, khăn mỏ quạ đen…trang sức nói lên sự yêu đời mà lòng dạ thì như vừa bị giội một gáo nước lạnh , chẳng còn gì hứng thú, như vừa tỉnh sau giấc mơ tuyệt đẹp, bà Kim-Chi vừa cười cầu tài vừa đề nghị, thay vì lấy nhau thì xin trở thành thông gia với nhau đó cũng là cách kết tình kết nghĩa tốt đẹp lâu bền vậy. Lưu-Minh-Phương không đồng ý, chỉ nói vắn tắt “Đâu có được, chuyện nào ra chuyện ấy.” Bà Kim-Chi lại nói đùa, Chẳng dám tham lam “Hoa thơm đánh cả cụm .” Nhà gái cho cô nào chúng tôi hoan hỷ xin cô ấy. Thử nghĩ mà coi, con gái xã trưởng mà lấy được người khoa bảng như Đào-Duy-Từ bây giờ chẳng là một vinh hạnh, tốt đẹp sao? Mình là cha mẹ hy sinh một chút cho con cái không được sao! Lưu Minh-Phương không đồng ý, chỉ nói vắn tắt “Đâu có được, chuyện nào ra chuyện ấy.” Chả hiểu có phải vì Đào Duy-Từ đỗ đạt mà gặp Lưu Minh-Phương lần này Kim-Chi bình tĩnh, ngang ngửa, “bên tám lạng bên nửa cân” chứ không chịu lép vế, khúm núm như người dân cầm đơn gõ cửa công quyền bữa trước. Bà trình bầy sang khía cạnh phong hóa, như là mẹ một người đỗ đạt mà bỏ đi lấy chồng thì tư cách còn gì, làng xóm trông vào sẽ đàm tiếu ra sao v…v… Lưu-Minh-Phương cũng không đồng ý, đập bàn, bực bội tức giận chẳng thèm nghe. Một người như hắn mà chịu ngoan ngoãn ngồi cho đàn bà thuyết phục ư ? Miếng ăn sắp tới miệng rồi, Làm sao để rớt được. Một mực hắn khăng khăng kết tội Kim-Chi bội tín. Không giống như sau này, chữ tín đối với cả nam lẫn nữ là vô cùng quan trọng trong xã hội Á-Đông thuở bấy giờ. Cũng vì quan trọng nên Lưu-Minh-Phương cho Kim-Chi về suy nghĩ ba ngày rồi trở lại trả lời dứt khoát. Ba ngày sau cũng chẳng có gì thay đổi. Kết thúc buổi hội đàm là Lưu Minh-Phương lạnh nhạt đuối Kim-Chi khỏi công đường. Buồn bã, thất vọng, lặng lẽ. Kim-Chi nhìn hắn ái ngại, cầm nón đi ra lủi thủi, cũng biết lỗi phần mình vì như vậy hiển nhiên phạm vào một trong ngũ thường: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nhưng nàng lại tự biện bạch chẳng có giải pháp nào khác rồi mừng thầm, nghĩ bụng: Thôi vậy cũng xong! “Thôi vậy cũng xong!” Thực sự đâu “Cũng xong” một cách dản dị như thế! Ái tình chẳng phải là chuyện đùa giỡn, coi nhẹ, lừa lọc. Điều này chứng tỏ Kim Chi không có bản lãnh trong tình trường.( Cũng tội,Kim Chi làm gì để có bản lãnh.), chưa nhìn rõ ta và địch, chưa thấu đáo tầm quan trọng của vấn đề. Kim-Chi bị đuổi về, Lưu-Minh-Phương nhìn theo bàng hoàng, đuổi người ta về nhưng lại không ngờ nàng đã ra về thật! Chả lẽ câu chuyện kết thúc dản dị vậy sao! Không cần nghĩ ngợi lâu, lòng căm hận bừng lên, hắn đang nhớ đến quan-huyện huyện Ngọc Sơn, một người thân cận, hắn từng gõ cửa nhiều bận, bèn thảo lá đơn kiện Kim-Chi sai lời, những tưởng nhờ kẻ quyền cao chức trọng lấy thế lực dọa nạt bắt ép nàng phải chấp thuận đi tới hôn nhân, cũng như giúp che đậy việc giả mạo việc giấy tờ hộ tịch thế thôi, những việc như thế giữa hắn và huyện quan có xa lạ gì, tình nghĩa cửa trước cổng sau vẫn đều đặn hậu hỹ dễ làng xã nào bì kịp… Vậy mà, dè đâu, chỉ vì quan huyện thuộc loại người mặc áo the phía trước ngắn hơn phía sau, sợ quá, bèn đưa hồ sơ bẩm lên quan hiến sát. Thế là giấy tờ hành chánh, nào khẩn mật, điều tra, thu thập tài liệu, tư lên tư xuống, âm thầm lặng lẽ cho tới ngày sự việc đổ bể tùm lum. Đào Duy-Từ nằm tại kinh đô mải lo đèn sách không biết những chuyện đã và đang sẩy ra ở nhà. Năm nay, vừa rồi, ông vào thi hội văn hay quán trường, nhưng có một bài nghị luận bàn về sự cải cách chính trị hơi trái ý chúa Trịnh làm cho quan chủ khảo đang phân vân không biết lấy đỗ tiến sĩ hay giáng xuống phó bảng thì bỗng tiếp được văn thư của bộ Lễ tư sang dậy phải xóa ngay tên Vũ-Duy-Từ không được tiếp tục thi cử, cách tuột Á-Nguyên và lột mũ áo! Tin xét đánh ấy về đến làng Hoa-Trai, bà Kim-Chi uất hận cắt cổ tự tử. Còn Duy-Từ bị lột mũ áo, lại nghe mẹ chết thì cũng như bị một tiếng sét thình lình bổ xuống đầu như trời giáng liền đau buồn thành bệnh thập tử nhất sinh, hiện nằm mê man ở nhà trọ không về làng được.
Đoan Quận Công Nguyễn-Hoàng nghe hết tình cảnh của Đào-Duy-Từ thì không bầy tỏ ý kiến gì. Uể oải đứng dậy sau khi cạn chén nước còn dở rồi chấp tay bái biệt quan thái phó, lên kiệu ra về. Bầu không khí vẫn yên tĩnh, nhưng tự nhiên có vẻ nặng nề thêm, những hình ảnh, tình tiết hình như vẫn còn lảng vảng chưa tan biến hết. Nguyễn-Hữu-Liêu kể chuyện cho người khác nghe mà cũng còn bàng hoàng. Phải chăng vì câu chuyện không có hậu, Sự kết thúc tan nát của cuộc đời những người lương thiện đã gây buồn bã làm mủi lòng tất cả mọi người. Quan thái-phó cố giữ khách lại uống rượu cho khuây khỏa, nguôi ngoai, cho tan bớt bầu không khí u buồn giữa mấy gian nhà rộng thênh thang, với biết bao nhiêu hoành phi câu đối lời lời vàng ngọc, nhưng Nguyễn-Hoàng đã từ chối. Ông là người khôn ngoan, biết nắm bắt thời cơ, ít khi để lỡ dịp may. Ông đang nẩy ra ý định sẽ phải làm một cái gì, chả thế mà Bảo-Đại, vị vua cuối cùng Nguyễn triều đã viết trong cuốn sách “Con Rồng Việt-Nam” đã nhận xét “Nguyễn-Hoàng rất thông minh và có tài thao lược.” Nguyễn-Hoàng và Công chúa Bảo-Ngọc là hai chị em ruột, đều là con cùng cha cùng mẹ của Hữu Vệ Điện Tiền tướng quân Nguyễn-Kim thuở trước. Chẳng may Nguyễn-Kim bị một hàng tướng của họ Mạc đầu độc nên binh quyền đã rơi vào tay chàng rể là tướng tài Trịnh-Kiểm, không kịp chuyển cho các con trai là Nguyễn Uông, Nguyễn-Hoàng và chính vì cái uẩn khúc âm thầm ấy mà Nguyễn-Uông về sau bị ám hại còn Nguyễn-Hoàng mới phải đề phòng, lại càng phải đề phòng, liệu đường cao chạy xa bay… Từ ngày được Trịnh Kiểm cho vào trấn đất Thuận-Hóa, cùng đoàn tùy tùng ít ỏi, năm 1558 đổ bộ lên bãi cát cửa sông Ái-Tử, nắng cháy da cháy thịt…Bấy giờ có ba người đi theo Nguyễn Hoàng là: ông cậu Nguyễn-Ư-Kỷ, ông Tống-Phước-Trị và ông Mạc-Cảnh-Huống, ông Huống có mang theo ba bị: Một bị áo, một bị gạo, một bị con tức là hạt giống, để gieo khắp miền Nam, sinh sôi nẩy nở sau này. Tạm thời, trong khi chờ đợi, thật là vất vả cực khổ, đoàn người phải hái lượm hoa trái rau dưa dọc đường độ nhật, phải câu cá nơi ngạch nguồn núi Trường sơn, phải bứt những mụt măng giang đem về nấu canh kho cá mà ăn: Măng giang nấu cá ngạch nguồn Tới đây ta phải bán buồn mua vui. Dần dần đi tới Cát-Dinh (Quảng-Bình) và Trà-Bát (Quảng-Trị) thì gặp dân làng gốc Mường Lạc định cư nơi này từ thời Huyền-Trân Công-Chúa (1306) đem dâng bẩy vò nác trong xanh như mắt mèo,chúa rất cảm động, Nguyễn-Ư-Kỷ bàn rằng:”Thế là lòng trời báo cho biết, đây là điềm tướng công mở ra nước sau này vì nước vừa có nghĩa là nước uống lại có nghĩa là đất nước nữa, Nguyễn-Hoàng đã hoan hỷ chấp nhận.” (Theo học giả Hương-Giang Thái-Văn-Kiểm trong Việt-Nam Tinh-Hoa). Từ đó Nguyễn-Hoàng đã mở mang bờ cõi xuống phương Nam. “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân.” Công lao ấy thật xứng đáng dân tôc ghi nhớ đời đời, nhưng đó là câu chuyện còn kéo dài tới nhiếu thế hệ con cháu về sau. Ngay khi từ chối bữa rượu mời, cáo biệt quan thái-phó Nguyễn-Hữu-Liêu, tin tưởng Đào-Duy-Từ là kẻ tài trí kinh bang tế thế, quan trọng hơn nữa còn chắc chắn hắn đang mang nặng một mối căm thù trong lòng, có thể nhờ cậy sau này, ông đã âm thầm vi hành tìm tới nhà trọ đưa chút tịnh tài để Đào-Duy-Từ uống thuốc, trang trải phí tổn ăn ở cho chủ trọ và ngỏ ý mời vào Nam giúp mình. Một hôm Duy-Từ đã khỏi bệnh, cũng là thời gian sửa soạn trở lại Thuận-Hóa, Nguyễn-Hoàng tới nhà trọ gặp Duy-Từ lần nữa. Nhân thấy trên vách có treo bức tranh, vẽ ba anh em kết nghĩa, Lưu Bi, Trương-Phi, Quan-Vũ dầm mưa giãi tuyết vào Long-Trung vời quân sư Gia-Cát-Lượng, hai người bèn ứng khẩu vịnh một bài thơ liên ngâm bầy tỏ chí mình. Nguyễn-Hoàng đọc trước: Vó ngựa sườn non đá chập chùng Cầu hiền lặn lội biết bao công. Duy-Từ nối theo: Đem câu phò Hán ra dò ý Lấy nghĩa Tôn Lưu để ướm lòng. Nguyễn-Hoàng lại tiếp: Lãnh thổ đoán chia ba xứ sở Biên thùy vạch sãn một dòng sông. Duy-Từ kết luận: Ví chăng không có lời Nguyên-Trực Thì biết đâu mà đón Ngọa-Long. Qua bài thơ, chủ khách hiểu nhau rất là tương đắc, nhưng Nguyễn-Hoàng không dám đem Đào-Duy-Từ theo mình ngay, e tiết lộ cơ mưu, bè ân cần dặn dò: “Lão phu về trước, xin đắp sẵn đàn bái tướng, chờ đợi tiên sinh. Năm nay lão phu hơn bẩy chục rồi, dẫu có thất lộc cũng di ngôn cho con cháu là phải đón tiên sinh về dậy bảo.” Duy-Từ bái tạ nhận lời, Nguyễn-Hoàng yên tâm giã biệt.
Sau khi thọ tang mẹ ba năm, Đào-Duy-Từ còn lưu luyến nán lại quê cũ vài năm, bán hết nhà cửa ruộng nương ở làng Hoa-Trai huyện Ngọc-Sơn phủ Tĩnh-Gia, Thanh-Hóa. Ông cũng không quên đem người vú nuôi của mẹ mình về làng Ngọc-Lâm huyện Lục-An đồng tỉnh, gửi gắm ông bà ngọai rồi rong ruổi lên đường vô Nam lập chí giúp chúa Nguyễn chống họ Trịnh trả mối thù bất cộng đái thiên: Mẹ chết, gia đình nhà cửa tan nát, công danh kỳ thị… Dù là có hẹn ước với Nguyễn-Hoàng từ trước, là kẻ sĩ, ông còn ngần ngừ chưa muốn đến gõ cửa, tự giới thiệu mình, thì lại nghe tin lúc đó chúa Nguyễn-Hoàng đang bận đi kinh lý nơi xa. Nhân cơ hội, mới lại cũng thích có chút thời gian thong thả tìm hiểu sơ qua nhân tình thế thái, lòng dân ra sao, quan lại thế nào, chính trị, binh mã mạnh yếu đến đâu bèn xách túi hành trang nhẹ hều lên đường, ngao du sơn thủy một chuyến, tối đâu là nhà, ngả đâu là giường, tùy cơ đối phó như con thuyền không mái, lênh đênh vô định. Đào-Duy-Từ cứ lang thang như thế, đặt chân khắp trà đình tửu quán, từ thành thị tới thôn quê, quan sát nếp sinh hoạt mọi tầng lớp quan quân sĩ thứ, gặp gỡ đủ hạng sang hèn, ghi nhận những thái độ, mơ ước trung thực của người dân, đến lúc tiền lưng đã hết, không ai nương tựa nơi đất lạ quê người mà lạ thay, vẫn giữ được vẻ bình thản, ung dung tự tại như thể mọi chuyện bình thường, chả có gì thay đổi. Ngày xưa, trong những pho truyện kiếm hiệp, khi một môn sinh tài nghệ luyện tập đã cao cường, đến lúc đó sư phụ mới quyết định cho xuống núi hành hiệp, ôi bao nhiêu là bịn rịn, bao nhiêu kỳ vọng, lời dặn dò, ký thác chân tình nhưng tuyệt nhiên hai thầy trò đến giờ chia tay vẫn không đả động một lời về chuyện làm sao để mưu sinh, độ nhật và cũng lạ một điều là vấn đề quan trọng thiết thực ấy như chẳng nhằm nhò gì, tác giả không đề cập tới, độc giả cũng không thấy thắc mắc. Trên bước đường trừ gian diệt bạo, chẳng biết làm cách nào mà tráng sĩ vẫn ăn ở, rượu chè, giao du bè bạn như một đại ca phong lưu hào phóng. Thực tế ra sao thật là mù mờ vô lý, họ phải có lợi tức để sống chứ! Không kể các hảo hán làm việc bảo tiêu, không kể những nhóm thảo khấu tụ tập nơi đèo heo gió hú bóc lôt lữ khách ngang qua…còn các vị danh trấn giang hồ, các vị “ giữa đường dẫu thấy bất bình mà tha.” Thường chẳng nghe nói hoạt động nghề nghiệp gì cả. Lẽ nào họ lại khác đám người trần mắt thịt tới độ lúc đói khát chỉ cần lấy nón hứng nước mưa uống thay cơm là xong! Có thể nguồn tài trợ cho họ là do các phú gia đài thọ, nhưng nguồn tài trợ này không thường xuyên đều đặn, chúng ta cũng không dám nghĩ là mỗi lần trong lúc cứu khốn phò nguy, lấy của cải người giầu chia cho kẻ nghèo họ đã nhân cơ hội, khấu bớt một phần để giắt lưng làm phương tiện chi dung cho bản thân. Nhưng thôi, dù sao thì Đào-Duy-Từ cũng đâu phải kẻ chuyên cầm kiếm cứu khốn phò nguy, ông không phải nhân vật mô tả trong tiểu thuyết, nên tiền bạc bán nhà bán cửa mang theo ăn sài mãi thì cũng tới ngày cạn là chuyện dĩ nhiên và cuối cùng, sau khi quản lý tửu điếm búng bàn toán lách cách một hồi nghe rất vui tai thì kết quả là trong túi Đào-Duy-Từ chỉ còn vài đồng tiền kẽm không đủ chi dùng vào việc gì. Ông bèn xách túi hành trang bước ra..đi lang thang tự nghĩ, có lẽ, hẳn phen này phải về gặp chúa Nguyễn thôi! Nghĩ rồi thì làm liền, tưởng chuyện cũng dễ, nhưng thật là ngạc nhiên, đi mãi, hỏi thăm hoài mà vẫn mịt mù như bóng chim tăm cá, khát nước, chân tay mỏi rời, cố gắng mà vận tốc vẫn chậm hẳn lại, khi lết tới đầu làng Tùng-Châu tỉnh Bình-Định gần đó, trời đã về chiều,nhìn thấy xa xa bên lề đường sừng sững một cái cổng cao lợp ngói cong uy nghi mầu sắc như mái tam quan đình chùa, tới gần, ngước mặt nhìn lên rành rành ba đại tự “Chúc Gia Trang.” Sơn son thiếp vàng ngạo nghễ! Ghé mắt nhìn vào bên trong, nào hòn non bộ, sân gạch, cây cảnh hoa cỏ xanh tốt như chốn bồng lai..mới chỉ nhìn thôi mà Đào-Duy-Từ đã cảm thấy khoan khoái, bớt mệt nhọc…và đang lơ mơ như thế thì nghe tiếng quát lớn: -Anh kia! Kẻ gian hay người lương thiện? Nhòm ngó gì thế? Muốn gì? Rồi thì trả lời, phân trần, giải thích…hỏi qua đáp lại, khi ông già giữ cổng biết là kẻ lỡ độ đường bèn dắt Đào-Duy-Từ vào ra mắt trang chủ, xin được tạm thời tá túc ít lâu. Trong khi đi theo người giữ cổng, Đào-Duy-Từ đảo mắt một vòng, đất cát dinh thự san sát, tường xây chia khu ngăn nắp, lối đi quanh co, nhà của như bát úp, nghĩ bụng, chắc con cháu cũng phải đông lắm, hy vọng được giao cho một chân kèm trẻ thì thật là tốt! Phú hộ Chúc-Trịnh-Long ngồi trên xập cao bệ vệ, phương phi, nhàn nhã...ông đang phe phẩy chiếc quạt giấy, nhìn kẻ lỡ độ đường thương tình, bèn chậm chạp gọi quản gia cắt đặt cho một chân chăn trâu. Lúc đó trời đã nhá nhem tối, thời gian gà đã lên chuồng. Đào-Duy-Từ hơi thất vọng, nhưng còn đi đâu nữa bây giờ đành ưng thuận, tự an ủi, nhất cử lưỡng tiện âu đó cũng là điều hay, cũng là náu mình, biết thêm điều gì càng nhiều càng tốt. Chăn trâu tuy cũng là lao động nhưng “Ai bảo chăn trâu là khổ ?” (Quốc văn Giáo Khoa Thư), chăn trâu tương đối chẳng khó nhọc gì so với bửa củi, gánh nước…nếu không muốn nói là nó có vẻ phù hợp với dáng vẻ thư sinh dài lưng tốn vải. Vậy là tốt dzồi! Ăn xin đâu thể đòi xôi gấc! Phú hộ Chúc-Trịnh-Long nào biết gì về kiến thức của kẻ lỡ độ đường mà đặt vào vị trí gia sư. Những lúc mấy con trâu hiền lành thong thả gặm cỏ trên gò đất cao, Duy-Từ rảnh rang tựa mình vào gốc cổ thụ, gió thổi hiu hiu, nghe tiếng sáo diều từ trên trời vọng xuống, suy tư, rồi thầm cám ơn phú ông, bằng lòng với nhiệm vụ được giao phó. Nhưng làm việc chẳng bao lâu, con trai Chúc-Trịnh Long là Chúc-Hữu-Minh mở Tùng-Châu Thi Xã, thấy Đào-Duy-Từ dáng người nho nhã, chững chạc mới xin với cha để lấy ông làm thư đồng, giữ nhiệm vụ mài mực, pha trà,sai vặt hầu hạ các vị văn thi sĩ trong thi đàn.Do đó khi làm công việc mới ông lại có cơ hội thỉnh thoảng được xem hoặc được nghe các vị ngâm vịnh, bàn luận văn chương cũng khuây khỏa, hào hứng, vui vui và chẳng nói thì ai cũng rõ là nhẹ nhàng, thích thú vô cùng. Một hôm vừa để ống bút giữa án thư sửa soạn cho buổi hội họp thường lệ của thi đàn thì ông nghe được từ hai vị tới sớm đang đàm thoại chung quanh bài thơ làm dang dở. Thực sự chẳng biết hai vị nói gì, bài thơ đề tài là gì, và ông nghe được những gì, chỉ thấy ngay sau đó Đào-Duy-Từ mỉm cười kín đáo rồi lễ phép lui gót ra ngoài. Cử chỉ dù thận trọng khiêm tốn nhẹ nhàng đến đâu mà có người trông thấy, người này thấy lạ lạ, cũng lịch sự kín đáo để bụng rồi lựa cơ hội kéo ông ra chỗ vắng nói chuyện…và lúc đó mới hết sức ngạc nhiên vì rõ rang những điều hiểu biết của Duy-Từ đáng bậc thầy vậy mà chả hiểu sao hắn lại chịu nhịn nhục làm thư đồng bao lâu nay! Về sau được nghe kể lại, nhiều người khác không tin, bán tín bán nghi, bàn tán thì thầm, cuối cùng bèn thử lại nhờ Đào-Duy-Từ “gà” giùm và nhờ sự chỉ vẽ của hắn mà tạo được những bài thơ rất hay! Có người cẩn thận đưa Duy-Từ soát lại “Tác phẩm” của mình vừa làm xong và nhờ đó sửa được những lỗi lầm về niêm luật sờ sờ ra đó mà như kẻ bị che mắt nhìn không thấy! Chẳng bao lâu sự việc này đến tai quan khám-lý Trần Đức-Hòa… Đức-Hòa hỏi chuyện từ người con trai cũng có chân trong thi xã: -Ta nghe phú hộ Chúc-Trịnh-Long có kẻ gia nhân tên Đào-Duy-Từ, chẳng hay người ấy như thế nào? Người con thực lòng phục tài nên ca tụng hết lời, nào là tinh thông binh pháp cổ kim, nào là như có một hệ thống triết lý, lý luận riêng biệt làm mực thước, làm kim chỉ nam luôn luôn giải thích , bênh vực. Muốn đem ra áp dụng, thực hành nhưng hiện giờ thì vẫn nhẫn nại chờ thời… Trần-Đức-Hòa im lặng lắng tai nghe, ngẫm nghĩ một lát rồi hỏi, câu hỏi nửa như bàn bạc, nửa như thăm dò xem ý kiến của người con thế nào: -Nếu quả thực Đào-Duy-Từ được như vậy thì lo gì chuyện tương lai, con nghĩ phải không? Người con đứng khoanh tay ngẫm nghĩ một lát, chẳng dám nói thẳng phải hoặc không, mặc dù hắn, với tư cách là con trưởng, vẫn thường được tham dự vào việc giải quyết nhiều vấn đề trong gia đình, bèn trả lời bằng một câu vô thưởng vô phạt nhưng cũng không đến nỗi lạc đề: -Thưa cha, Đào-Duy-Từ không những thơ phú rất trác tuyệt mà còn có vẻ rành về âm nhạc nữa! -Rành về âm nhạc? Thế chẳng hay Đào-Duy-Từ thường sử dụng loại nhạc cụ nào? Có biết khẩy đàn như Bá-Nha chăng? Trần-Đức-Hòa hơi ngạc nhiên, nhanh nhẩu đặt câu hỏi và có vẻ thích thú, chả là vì ông cũng thuộc nòi tình, chuộng đàn phách ca ngâm, trong dinh lúc nào cũng nuôi sẵn bọn thiếu nữ trẻ đẹp cùng mấy nhạc công để dùng vào việc múa hát khi tụ họp bạn bè uống rượu. Người con bèn thưa: -Thưa cha con không rõ. -Có thể y chỉ biết thổi sáo, trẻ chăn trâu thường ưa thổi sáo! Câu phỏng đoán này, nếu Đào-Duy-Từ nghe được chẳng biết sẽ nghĩ sao và thực sự nó chứng tỏ Trần-Đức-Hòa chưa hiểu gi nhiều, còn người con trai thì tuy biết vị trí của mình đang hầu chuyện phụ thân nhưng cũng lựa lời đáp rằng: -Thưa cha con xin thưa lại, Duy-Từ nói về âm luật, ca vũ rất rành còn về kỹ thuật sử dụng nhạc cụ tạo âm thanh thì con cũng chưa được thưởng thức hắn biểu diễn nên chẳng biết ra sao. Trần-Đức-Hòa nổi tính tò mò, bèn bảo gia nhân sửa soạn xe ngựa đến chơi Chúc-Trịnh-Long gia trang, mục đích tìm ông lên nói chuyện, khiến cho toàn thể mọi người trong gia trang vui mừng vội vàng lật đật mặc quần áo mới, hãnh diện quét dọn trong ngoài sạch sẽ,sửa soạn ly tách trà rượu đợi chờ vì có mấy khi mà được rồng đến nhà tôm! Khi giáp mặt Đào Duy-Từ, thấy vẻ nho nhã, chững chạc, hỏi đâu đáp đấy, lễ phép, rành mạch, gẫy gọn, ông để tâm nhất đến mấy điều hắn phát biểu về Khổng-Tử: “Chúng ta phải suy nghĩ, rút kinh nghiệm, tại sao Khổng-Khưu làm tướng quốc nước Lộ, ngoài chợ không ai dám nói thách, trai gái đi trên đường theo hai lối khác nhau, của rơi chẳng ai dám nhặt nhưng chỉ được ba tháng thì vua nước Lộ không dung.” “Chúng ta cũng phải tìm nguyên nhân, học hỏi tại sao Tề-Cảnh-Công, Lỗ-Chiêu-Công rồi Ngô, Sở, Tào, Tống…cả thẩy mười bốn nước đều không trọng dụng Khổng-Tử, mặc dù hàng vạn câu nói ngắn gọn của ông để lại cho đời trở thành danh ngôn và ông được tôn lên hàng Vạn Thế sư biểu, nơi nơi về sau chỗ nào cũng thấy lập miếu thờ…” Cuối cùng, Trần Đức-Hòa chịu là bậc tài cao học rộng, hiếm thấy trong xã hội lúc bấy giờ bèn mời vế nhà dậy học rồi gả con gái cho.
Ở nhà Đức-Hòa, ngoài những giờ dậy học ông vẫn tiếp tục kín đáo nhẩn nha nghe ngóng, không tỏ ý nôn nóng vội vàng. Cuộc sống đã thoải mái hơn trước, song, thoải mái hay nhọc nhằn đối với ông cũng chẳng quan trọng. Đào-Duy-Từ tin là ông đang đi đúng con đường dẫn tới mục tiêu. Nhưng có thể vì mới thành lập gia đình nên việc “trình diện” Chúa Nguyễn sẽ lại phải trì trệ thêm một thời gian. Ông thường dùng thời gian nhãn rỗi, ra vườn sau cuốc đất trồng rau nhằm tiêu khiển cho khuây khỏa, giết thì giờ. Đào-Duy-Từ muốn tránh không luôn luôn quanh quẩn bên người vợ trẻ, chẳng phải là mặc cảm mà chỉ muốn tỏ ra nghiêm chỉnh vì dù đã là vợ chồng rồi, song gia nhân lúc nào cũng túc trực hầu hạ quanh mình, lại nữa, vẫn còn lũ em nàng, đám học trò mà ông hết lòng yêu mến, tình anh em thân mật cũng hay, ông là con một trong gia đình từ xưa chưa biết đến. Nhưng trong đêm khuya thanh vắng, ông vẫn là người chồng tha thiết mặn nồng, tần mần để ý chăm sóc cho vợ những chuyện dù thật nhỏ, nó nói lên được cái tình say đắm, trẻ trung, thương yêu tương kính. Đào-Duy-Từ thường tâm sự những lúc chỉ có riêng hai người, giá vợ chồng được chung sống trong ngôi nhà cũ của cha mẹ ở làng Hoa-Trai ngoài Thanh-Hóa thì thoải mái, hoàn hảo biết là chừng nào! Vợ ông, tiểu thư Ngọc-Hạ tỏ ra rất thông minh tế nhị, rất hiểu ý chồng và luôn luôn ngoài mặt cũng nói là chỉ ước ao như thế! Nhưng lấy nhau còn quá mới mẻ, chưa có công danh sự nghiệp gì, nên những lúc như vậy nàng thường lái câu chuyện sang hướng khác, nàng thủ thỉ: -Dần dần như mọi người rồi mình cũng tiến tới cuộc sống tự do tự lập thôi, thiếp tin là với tài năng của phu quân thì mọi ước mơ như thế, trước sau cũng sẽ thành sự thực và biết đâu chẳng có ngày chúng ta sẽ cùng nhau về chào ông bà ngoại, dắt thêm đứa cháu bé…à mà chẳng hay mai mốt phu quân muốn con trai hay con gái? -Ta muốn cả con trai, con gái mà muốn thật nhiều! -Sao phu quân tham lam thế! Mà thật nhiều để làm gì cơ chứ? -Để chứng tỏ ta là người yêu vợ thật nhiều! -Cái gì cũng thật nhiều, thiếp làm sao chiều cho nổi! Ngọc-Hạ mắc cỡ, thân thể nóng ran, nhớ lại “thật nhiều”. Ngọn đèn dầu leo lét, căn phòng ấm cúng chỉ có hai vợ chồng mà nàng cũng cảm thấy ngượng chin cả người, xa xa tiếng trống cầm canh vọng lại…Duy-Từ đặt nhẹ tay vào vai Ngọc-Hạ xoa dịu: - Con gái thì để ngồi nghe bà ngoại kể chuyện cổ tích, còn con trai đợi ông ngoại xong việc quan, chiều về dắt đi bách bộ ngoài đường, rồi ghé quán nước chè tươi đầu làng, ông mua cho cháu xu kẹo bột “cho cháu nó mừng!” Ngọc-hạ vừa nghe vừa lấy lại bình tĩnh, mơ màng với những hình ảnh hạnh phúc Duy-Từ đang vẽ ra nên nũng nịu đùa với chồng: -Thế ông ngoại, bà ngoại, cháu trai, cháu gái ai nấy đều có việc, vậy còn vợ chồng mình làm gì? -Thì vợ chồng mình lúc đó lại cứ ở trong phòng như thế này thôi! Hai người cùng cười khe khẽ. Phòng the yên lặng như tờ, nhưng chưa ai ngủ, hình như mỗi người đang theo đuổi những ý tưởng riêng. Đào-Duy-Từ chợt nghĩ, thấy hoàn cảnh mình có điểm tựa tựa như bảng nhãn Nguyễn-Phi-Khanh đời nhà Mạc, lúc hàn vi có tên cũ là Nguyễn-Ứng-Long, nổi tiếng văn hay chữ tốt, từ Hải-Dương di cư sang Hà-Đông, được quan tư đồ Trần-Nguyên-Đán ( 1320 – 1390 ) mến tài mời về làm gia sư. Nhưng cũng có điểm khác, khác chăng là Phi-Khanh mới chân ướt chân ráo, chẳng biết thầy trò dậy bảo nhau làm sao mà chỉ ít lâu sau: Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc, Phận liễu sao đà nẩy nét ngang. Tì sợ quá phải bỏ chốn, may nhờ quan cho lính phóng ngựa đuổi theo bắt lại rồi thay vì chém đầu, ngài đã thương tình tác hợp cho thành vợ chồng…còn Duy-Từ thì… không! Yên lặng lúc lâu ông hỏi vợ có biết chuyện này chưa? Ngọc Hạ gật đầu trả lời biết và thêm ý kiến : - Mà Nguyễn-Phi-Khanh là Nguyễn-Phi-Khanh, mỗi người có hoàn cảnh riêng đâu có thể so sánh ai với ai được phải không? Duy-Từ thầm khen vợ lầu thông kinh sử lại thông minh rồi nói thêm: -Ta cũng nghĩ thế nhưng nhiều khi ta vẫn khâm phục quanTrung thư Thị- Lang vì ngài đã có phen dám sống chết vì tình. -Còn phu quân thì sao? -Rất tiếc ta không có cơ hội để chứng tỏ được như thế! Hai vợ chồng cùng cười, âu yếm…Ngày xưa , nói chung, như mọi người đều hay ít trường hợp để đôi bên trai gái có cơ hội trải qua thời gian thơ mộng trước hôn nhân. Các cụ đặt ra công thức “Nam nữ thụ thụ bất tương thân.” Để việc tề gia bớt sẩy ra chuyện đáng tiếc, khó điều hành. Hãn hữu mới có tình yêu thuở ban đầu, còn phần lớn thoạt tiên là tình vợ chồng và từ đấy mới nẩy nở thương yêu, điều đó cũng hay nhưng cũng dở và trường hợp Đào-Duy-Từ và Nguyễn- Phi-Khanh thì chẳng giống nhau. Dịp này nhân lúc rảnh rỗi Đào-Duy-Từ cũng hay làm thơ, đọc sách, ông thường mài miệt suốt ngày trong thư phòng của bố vợ vì nơi đây sách quý hiếm nhiều vô cùng, chính nơi đây ông đã sáng tác bài Ngọa-Long-Cương ngâm, tự ví mình như Gia-Cát-Lượng, tư tưởng rất là nho nhã, nhưng khẩu khí chẳng dấu được sự tự hào. Cũng dịp này ông đang nghĩ đến bài thơ liên ngâm với chúa Nguyễn-Hoàng thuở trước và việc thực hiện lời hứa ở nơi nhà trọ ngoài Thanh-Hóa thì bỗng một hôm mới đầu giờ Tỵ, chưa bãi trào đã thấy nhạc gia lật đật trở về báo tin chúa Nguyễn Hoàng vừa qua đời. Lúc đó vào thời vua Lê-Kính-Tông (1600-1619) Nguyễn-Hoàng mất năm Quý-Sửu (1613) thọ 89 tuổi, sau cả cuộc đời hy sinh tận tụy lo gây dựng cơ đồ, kể cả công lao xây cất ngôi chùa danh tiếng:Chùa Thiên-Mụ(1601) để từ đó phát sinh câu ca dao bất hủ “Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên-Mụ canh gà Thọ-Xương.” Sau khi chờ đợi mãi cũng không có tin tức gì của Đào-Duy-Từ, nên trong giờ phút hấp hối ngài mới dặn con là Nguyễn-Phúc-Nguyên rằng: “Ngày trước ta ra Thanh Hóa gặp Đào-Duy-Từ là bậc kỳ tài. Người ấy có hẹn vào giúp ta,hễ y đến phải trọng dụng,đừng coi thường,bỏ lỡ cơ hội thì rất uổng.” Tiện đây xin ghi lại một chi tiết: Nguyễn Kim rồi Nguyễn Uông,Nguyễn Hoàng. Họ Nguyễn này cũng như nhiều dòng họ ở miền Trung nước Việt Nam việc đặt tên thường không thấy dùng tên đệm ở giữa. Nhưng về sau, khi bà vợ Nguyễn-Hoàng lâm bồn nằm mộng thấy một đạo sĩ tóc bạc như cước, dáng tiên phong uy dũng trống cây gậy trúc đến trao cho bà tờ giấy hồng đào, bà vui mừng mở ra , thấy viết nhiều chữ phúc, khi tỉnh dậy thì sinh được đứa con trai, bà kể lại với chồng và xin đặt tên con là Nguyễn-Phúc, nhưng Nguyễn-Hoàng nghĩ, giấy hồng đào viết nhiều chữ Phúc chứ không phải chỉ một chữ Phúc, vậy có thể ý trời muốn các thế hệ tiếp nối cũng phải được thừa hưởng cái ân huệ đó,cái phúc đó nên lấy chữ phúc làm tên đệm, và đặt tên con là Nguyên có nghĩa là khởi thủy: Nguyễn-Phúc-Nguyên. Dòng họ được thay đổi một chút kể từ đấy. Nguyễn-Phúc-Nguyên lên nối nghiệp, ma chay xong, họp các quan đại thần bàn việc nước và cho các quan được tiến cử nhân tài. Đây là ý riêng của chúa, nhưng về sau, kể từ năm 1748 trở đi, bầu cử nhân tài là một bổn phận, nhiệm vụ, một công tác mỗi chức quan từ tam phẩm trở lên phải đề bạt những người có khả năng, đức độ mà mình biết, dù có bằng cấp hay không, chọn trong số các nho sĩ, thuộc quan nằm trong quyền quản hạt của mình, hàng năm, vào tháng 8 bộ Lại nhận được các danh sách này để trình lên vua chúa quyết định. (Theo Trần-Văn-Tích, Sự Muôn Năm Cũ.). Nhân dịp này, khám lý Trần-Đức-Hòa tiến cử Đào-Duy-Từ và dâng bài Ngọa Long Cương Ngâm để chúa ngự lãm. Ngọa Long Cương Ngâm Bụi trần chẳng gợn mảy may Xem hoa hớn hở, xem mây lững lờ. Tạm ẩn bóng đợi chờ tri kỷ Hỏi rằng ai lập chí bá vương! Long-Trung chốn ấy đã tường Cầu hiền chân chúa tìm đường đến mau Nay tuy tạm trồng rau cuốc đất Nhưng có ngày cờ phất trên yên Tài cao xá chịu phận hèn Giúp vua quyết giữ vững bền non sông. Đào-Duy-Từ. Nguyễn-Đức-Hòa nhìn chúa xem thơ hồi hộp đợi chờ…Chúa đọc xong chưa quyết định sao mới gật gù khen là người có chí lớn. Thông thường chúa sẽ hỏi thêm về lý lịch, giòng giõi, khả năng, vân vân trước khi quyết định, đàng này không, cứ yên lặng, ngẫm nghĩ rồi sau cùng để mắt tới tên tác giả, như khám phá ra sự gì! Đúng rồi! Lời cha dặn trước lúc lâm chung! Mừng rỡ lộ ra mặt,hẳn là tên tuổi hắn rành rành đây còn gì! Chúa bèn đập tay xuống án thư, đứng dậy.. rồi tỏ ý nôn nóng muốn đích thân đến đón Duy-Từ…làm quan Khám lý ngạc nhiên sợ hãi vô cùng, chẳng hiểu làm sao. Sau biết rõ tự sự thì mừng quá, có rể hiền trong nhà mà đâu hay! “Hắn thực tệ!” Quan lẩm nhẩm “Mà thôi, tiên trách kỷ hậu trách nhân, mình đâu ngờ mà hỏi, nên tự dưng hắn biết khai làm sao.” Còn chuyện bây giờ để bẩm với chúa, ý chúa muốn đích thân đến nhà gặp hắn thì không dám, sợ thất lễ, bèn lật đật xin về sửa soạn ba ngày sau đưa Duy Từ tới yết kiến ngay. Chúa nghĩ thấy phải, nên chấp thuận. Ba hôm sau, khi cha con Khám lý đến thì vừa lúc chúa tính đi nghỉ, người vội vàng khoác áo trắng, đi giầy xanh ra đón. Đào-Duy-Từ trông thấy, biết là chúa, nhưng vờ hỏi Đức-Hòa: -Thưa nhạc gia, người kia có phải là nội giám không? Đức-Hòa sợ hãi, trợn mắt, khua tay nói: -Đấy là chúa thượng, hiền tế phải giữ lễ! Duy Từ thản nhiên đáp: -Chúa thượng đón người hiền mà y phục không tề chỉnh, có ý khinh xuất,thôi ta về! Thực ra chúa không có ý khinh xuất, ngài cũng như người vợ cả, Mạc-thị-Giai, cháu gọi Mạc-Cảnh-Huống bằng chú, hai vợ chồng rất tâm đầu ý hợp với lối sống dản dị, thanh đạm, bình dân. Riêng Nguyễn-Phúc-Nguyên hay mặc nâu sồng, quần áo bằng hàng vải thô như người tu sĩ nên nhân dân nhiều khi còn âu yếm gọi là chúa Sãi. Chúa Sãi nghe vậy vội vàng chấp tay vái: -Đó là lỗi ở ta! Nói đoạn, trỏ vào mặc triều phục, sai mở cửa giữa nghênh tiếp, mời hai người ngồi, kính cẩn hỏi Duy-Từ: -Tôi nối nghiệp của Tiên Công, đất hẹp dân nghèo, mặt ngoài chúa Trịnh uy hiếp, mặt trong Chiêm thành quấy nhiễu, nay tiên sinh hạ cố tới đây, có điều gì dậy bảo xin lắng tai nghe. Đào-Duy-Từ đứng dậy nghiêng mình thi lễ rồi nói: -Ngày trước tôi có diễm phúc được gặp Đức Tiên Vương, không ngờ thời gian như bóng câu qua cửa sổ, thấm thoát thế mà đã gần hai chục năm, giờ tới đây thì người vội băng hà, chẳng được thừa nhan, thương xót vô cùng, nay chúa thượng không chê tôi là kẻ quê mùa mà hỏi đến, biết được điều gì xin thành thực giãi bầy. Sau đó hai người điểm sơ về tình hình mọi mặt. Kinh tế, chính trị, quân sự... Phe ta, phe địch, cái gì nên giữ, cái gì nên bỏ, cái gì nên sửa đổi…Nhờ thời gian Duy-Từ ngao du từ trước, thời gian ăn cơm nhà phú hộ Chúc-Trịnh-Long, thời gian ở rể nhà quan khám lý Đức-Hòa…trong ngoài quý phái bình dân đều từng trải, nên nay nói ra những lời nhận xét, phê bình chỗ yếu chỗ mạnh , dân tình thế thái…y như bản báo cáo của vị thanh tra công tác trở về…và quan trọng nhất,họ cùng đồng ý ở một điểm tối ưu là, nối tiếp ý chí của tiên vương (Nguyễn-Hoàng) chờ thời nêu cao mục đích quyết tâm phò Lê diệt Trịnh vì Trịnh Tùng vừa giết Anh-Tông lại uy hiếp vua mới lòng dân Bắc hà đều oán giận. Nguyễn-Phúc-Nguyên mặt mày hớn hở, lòng vui nhu mở hội, mới buổi đầu gặp gỡ chưa nhìn tận mắt khách làm được điều gì ích quốc lợi dân,nhưng dù chỉ mới nghe nói mà như người gãi đúng chỗ ngứa, hơn nữa bằng vào di ngôn của phụ thân, lại được quan Khám-Lý, một đại thần uy tín xưa nay tiến cử thì đinh ninh, tin tưởng cũng là cái điềm xã tắc sơn hà sắp đến hồi hưng thịnh bèn đặt tiệc khoản đãi Đào-Duy-Từ và Trần-Đức-Hòa rồi họp quần thần trên đại điện để phong cho Đào-Duy-Từ làm Nha Úy Nội Tán, tước Lộc Khê Hầu, coi nội ngoại quân cơ, tham lý quốc chánh. Theo quy chế quan lại vị trí tước Hầu đứng hàng thứ nhì. Công, Hầu, Bá, Tử, Nam…riêng tước Hầu lại chia ra 18 bậc, thuộc từ hàng Tòng tứ phẩm tới hàng Tòng Tam phẩm dù ngữ nghĩa đôi khi rất thường, thí dụ Nguyễn-Trãi là Quan-phục-Hầu tức là tước hầu đội mão cho vua! Đội mão cho vua thì có gì hãnh diện, Nhưng đó chỉ là danh xưng, chỉ là cái tước vị vì thực ra việc đội mão cho vua thì đã có các mỹ nữ, hoạn quan phụ trách, chứ Nguyễn-Trãi chẳng bao giờ phải làm những việc như thế cả. Chức tước chỉ là danh xưng, phân ngôi thứ cao thấp, mô tả công việc trong hệ thống hành chánh. Chức và tước khác nhau. Có khi tước lớn mà chức nhỏ, không quan trọng (Ngồi chơi xơi nước). Có khi tước nhỏ mà chức lớn. Chức Nha Úy Nội Tán coi nội ngoại quân cơ lại được tham lý quốc chánh của Đào-Duy-Từ là rất lớn, tối ư quan trọng. Ta còn nhớ, khi chưa gặp hội rồng mây, Đào-Duy-Từ đã làm bài Ngọa-Long- Cương Ngâm, ví mình như Gia-Cát-Lượng. Bài Ngọa-Long-Cương Ngâm thực ra rất dài, gồm 316 câu, thỉnh thoảng có xen kẽ những bài ca, những khúc ngâm, hoặc bài Đường luật trên đây là chỉ trích dẫn một đoạn ngắn. Gia Cát-Lượng sanh năm 182 sau Công-Nguyên, hiệu là Ngọa-Long, tự là Khổng-Minh người Nam-Dương Bắc-Lăng Dĩnh-Châu cách thành Tương Dương 20 dặm. Tiện thể cũng xin nhắc qua một vài câu đối thoại rất thú vị trong Tam-Quốc-Chí do Phan-Kế-Bính dịch lúc Khổng-Minh sau “tam cố thảo lư” , vừa về với anh em Lưu-Bị khi 28 tuổi, được phong ngay chức quân sư, làm “đình thần lơ láo” ai nấy không hiểu đầu đuôi ra sao cả. Lúc đó các tướng lãnh của Lưu-Bị, mọi người, đều tỏ vẻ hoài nghi và bất phục. Ngay tướng tài Trương-Phi, một phần tính nóng như lửa, một phần ỷ là anh em kết nghĩa vườn đào với Huyền-Đức đã mạnh dạn phát biểu trước buổi họp phân công sửa soạn trận Tân Dã: -Chúng tôi đều ra nghênh địch cả, chưa hiểu quân sư ngài đảm nhiệm việc gì? -Ta chỉ ngồi nhà giữ thành. Khổng-Minh trả lời vắn tắt và có vẻ cương quyết. Trương-Phi cười ầm lên nói tiếp: -Chúng tôi thì đi đánh nhau cả, còn ông thì ngồi khểnh ở nhà, thảnh thơi quá! Khổng-Minh đứng phắt dậy, đảo mắt một vòng, dõng dạc: -Kiếm ấn ở đây! Kẻ nào không tuân lệnh ta lập tức chém đầu! Mọi người nghe vậy ngạc nhiên nhưng ai nấy đều rõ đây là lúc nghiêm trọng Không nên dỡn mặt và lập tức thay đổi thái độ,riu ríu nhìn nhau rồi cúi đầu…tuân lệnh. Tuy rằng họ vẫn nghĩ họ mới chính là những kẻ bao phen vào sinh ra tử, vậy mà chưa được hưởng phúc lộc bao nhiêu, nay chủ soái, khi không đem một tên tuổi xa lạ về đặt ngồi lên trên bực tức vô cùng. Nhưng pháp lệnh đã ban bố là phải thi hành, riêng Trương Phi còn liều mạng gỡ gạc một câu cho đỡ hậm hực. Bèn hươi cây xà mâu quay lại nói với bọn đàn em Triệu-Vân, Phàn-Thành: -Hãy chờ xem kế của hắn có hiệu nghiệm hay không đã. Bấy giờ ta hỏi tội cũng chưa muộn. Nhưng cũng may, thời gian “chờ xem” đã chẳng phải kéo dài. Trận ra oai đầu tiên ở gò Bác-Vọng huyện Tân Dã ấy, với ba ngàn quân Thục dùng hỏa công Khổng-Minh đã đánh bại mười vạn quân của đô đốc Hạ-Hầu-Đôn và đã khẳng định tài thao lược của quân sư cũng như nhân đó mới thấy cái nhìn xa hiểu rộng của nhà lãnh đạo Lưu-Bị. Về sau nhà văn La-Quán-Trung ca ngợi trận hỏa công Tân-Dã bằng hai câu thơ: Phong Bá ra oai Tân-Dã huyện Chúc-Dung bay xuống Diễm ma thiên. Trường hợp Đào Duy-Từ thì sao? Cờ đến tay rồi! Quan Nhã Úy Nội-Tán sẽ hành sử thế nào để văn võ bá quan nể mặt để sứng đáng là bậc thầy trong thiên hạ ( Sau này Duy-Từ đắp một cái lũy để ngăn quân Trịnh, đó là lũy Nhật-Lệ song vẫn thường được mọi người gọi là lũy Thầy vì người đời bấy giờ thường gọi Duy -Từ là thầy. Lũy Thầy tuy không người bảo quản, trải bao hưng phế, nhưng vẫn còn di tích ở vùng Quảng-Bình ngày nay. Trong sách Quốc-Văn Giáo Khoa Thư lớp dự bị lũy Thầy còn gọi là lũy Đồng Hới) Lại nữa, hai câu kết bài Ngọa-Long Cương Ngâm còn đó: Tài cao há chịu phận hèn Giúp vua quyết giữ vững bền non sông. Hiện thời chưa có cơ hội giúp vua,nhưng chúa Sãi thì cũng như vua vậy. Đào Duy -Từ phải làm gì để hỗ trợ chúa Sãi giữ vững cơ đồ cho thỏa lòng kỳ vọng vong linh Nguyễn-Hoàng nơi chin suối? Hãy coi hồi sau sẽ rõ. Có Đào-Duy-Từ dưới trướng rồi, cho tới năm Đinh-Sửu (1625) đời vua Lê-Thần-Tông thứ nhất (1619-1643) chúa Nguyễn vẫn tỏ lòng thần phục chúa Trịnh qua hành động nhận sắc phong, chức Thái-Bảo tước Thụy Quận Công như thường. Thỉnh thoảng chúa Trịnh sai người vào thăm dò với lý do này nọ thì Nội Tán Duy-Từ khuyên chúa Nguyễn dấu hết lực lượng quân sự, tiếp đãi long trọng đút lót tiền bạc cho hậu để họ về tâu lại theo chiều hướng thuận lợi và để chúa Trịnh yên bụng vui lòng không nghi ngờ gì cả. Nhưng đến tháng 11 năm sau, năm Mậu-Dần (1626) thấy binh tình đàng ngoài, nhân dân ở Hải Dương nổi loạn, Duy Từ bàn cùng chúa Nguyễn làm một cái mâm hai đáy, để lễ vật bên trên, bên dưới ngầm dấu một bài thơ sai sứ đem ra dâng chúa Trịnh, Sứ về Nam rồi chúa Trịnh mới biết mâm có hai đáy,cậy ra xem thì lại chẳng hiểu gì, lại phải qọi quan Thái-Phó Phùng-Khắc Khoan vào cắt nghĩa mới hay. Bài tứ cú tứ tuyệt, giống như lời sấm ký, hay là một câu kệ của vị chân tu để lại cho môn đệ trước khi viên tịch, và quan trọng là, phải thêm hoặc bớt một vài nét của một hai chữ mới hiểu được ý của người viết, như câu thứ nhất chữ MÂU không có nét phẩy là chữ DƯ v…v…nghĩa toàn bài như vầy: Mâu nhi như dịch nghĩa là Dư Mịch phi kiến tích nghĩa là Bất Ái lạc tâm tràng nghĩa là Thụ Lực lai tương địch nghĩa là Sắc Đại ý bài thơ cho chúa Trịnh biết Dư bất thụ sắc là ta không nhận sắc phong. Phương Nam từ nay không thần phục họ Trịnh nữa. Sau khi tỏ rõ lập trường để phương Bắc hiểu như thế, Đào-Duy-Từ xin chúa Nguyễn đắp lũy Trường Dực để ngăn quân địch tràn vào cửa Nhật-Lệ. Lại thân chinh xin đem quân đi đánh đất Bố Chánh chiếm lĩnh được suốt từ phía Nam sông Linh-Giang trở vào, lậpđồn ải kiên cố, đặt ra hai mươi bốn đội chiến thuyền, bắt tập luyện tinh nhuệ để chống nhau với quân họ Trịnh. Năm Tân-Hợi (1631) Đào-Duy-Từ khởi công đắp lũy Nhật-Lệ (Lũy Thầy) ở Đồng Hới Quảng Bình. Lũy cao 12 thước ta, dài 10 dặm, đắp đất bên ngoài cắm đà bằng gỗ lim chạy suốt từ núi Đâu-Mâu đến cửa Nhật-Lệ, mặt lũy rộng,chắc, voi đi lại được dễ dàng, cứ mỗi đoạn dài bốn chục thước thì xây một pháo đài đặt súng thần công án ngữ, khí thế rất hùng hậu. Thế là kể từ đó, từ 1626 hai đàng Bắc Nam, chúa Trịnh,chúa Nguyễn, thực sự coi nhau như kẻ thù, đánh qua đánh lại bao phen máu chẩy đầu rơi, nhân dân hai miền tan tác, điêu tàn, bất phân thắng bại. Nếu không có Đào-Duy-Từ chưa chắc Chúa Nguyễn đã dám công khai ra mặt chống cự quân Bắc phương ngay thời gian bấy giờ. Với quyết tâm, với tài năng Đào Duy-Từ đã hết lòng phò tá và đã tạo ra một tình thế ngang ngửa khiến chúa Trịnh chẳng làm gì được. Đào-Duy-Từ (1572-1634) ngoài có công đánh quân chúa Trịnh, trong mở đất rộng xuống phía Chiêm-Thành, ta còn phải kể ông cũng là một nhà chuyên môn về nghệ thuật âm nhạc,đã sửa lại các lối hát và các điệu múa cổ, đặt ra điệu mới điệu Song-Quang, điệu Nữ Tướng Xuất Quân, điệu Tam Quốc, điệu Tây Du… Sau khi mất ông được truy tặng là Trụ Quốc Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu Lộc Khê Hầu. Năm Minh-Mạng thứ 12 (1831) tôn vinh làm Khai Quốc Công Thần. Lũy Thầy được lập sắc gọi là Định Bắc Trường Thành. (Lũy và thành là hai danh từ có nghĩa khác nhau Thành có tính cách xây cất kiên cố, đôi khi thành bao bọc cả bốn mặt, còn có nghĩa là một kiến trúc:Thành phố. Lũy viết bởi ba chữ điền bên trên chữ thổ, lũy có thể đắp bằng đất chỉ cốt ngăn quân địch một mặt, một phía có tính cách giai đoạn, không nhằm lâu dài.) Đền thờ Đào-Duy-Từ sau này được xây cất ở thôn Lập-Sơn huyện Hoài-Nhơn tỉnh Bình-Định với tấm bia viết tứ đại tự: Bách Thế Bách Phiên. Dân miền xuôi lập nghiệp ở Ban-Mê-Thuột vào năm 1928 cũng xây một ngôi đình làng gọi là đình Lạc-Giao, đình này được vua Bảo-Đại sắc phong Đào-Duy-Từ là thần hoàng kể từ năm 1932. Kẻ đời sau nhiều người cảm kích làm thơ ghi lại cuộc đời Đào-Duy-Từ nay xin chép một bài để tỏ lòng tôn kính, ngưỡng mộ. Tài Mệnh Tương Đố. Tài mệnh sui chi lắm đọa đầy Thông minh thiên phú chẳng cầu may Mồ côi thân phụ không buồn nản Kỳ thị cầm ca thật uổng thay Tiến sĩ những mong ra giúp nước Á nguyên nào biết trắng luôn tay Liên ngâm tương đắc thành tri kỷ Nhớ nghĩa kiên tâm đắp Lũy Thầy. Hoài-Việt Nguyễn-Vĩnh-Tường. Khoảng năm 1672 hai bên đàng trong đàng ngoài, tự biết sức mình chẳng thể dùng vũ lực đè bẹp được nhau, đành tự động bãi binh không ký kết hiệp định và cũng chẳng có giấy tờ nào, nhưng cùng lấy sông Linh Giang (sông Gianh) làm ranh giới thực tế. Ranh giới này cũng là một vết nhơ trong lịch sử và nó đã gây nên bao cảnh biệt ly vương vấn muôn đời với những câu ca dao man mác. Bao giờ cạn lạch Lũy Thầy Sông Gianh hết chẩy lòng này hết thương.
Phụ Lục
Bức thư của Trịnh Tráng Gởi Nguyễn-Phúc-Nguyên. Chu Tuyên Vương(1) chấn tu cương kỷ(2), bình ngoại khấu(3) lại dài tộ(4) Chu; Hán Quang Vũ(5) diên lãm(6) anh hùng, di nội nạn(7) đặng nên nghiệp Hán. Sự xưa khá ví(8), gương sáng nên soi. Nhà nước ta nay! Dùng võ dẹp loàn, lấy văn giồi(9) trị. Vua Thái Tổ(10) dấy binh nhơn nghĩa dùng xích kiếm(11) dẹp tướng Thiên triều(12); Vua Thái Tông vỗ vân doanh thành(13), vào địa giới vén thu Nam Quốc(14). Tổ công tông đức, thánh kế thần truyền(15) Vua Trang-Tông(16) rủ áo(17), cắp tay: Chúa Thái Vương(18) ra công mở nước. Dẹp Đông dẹp Bắc, uy chấn bụi bờ(19) , cát gió bay; Đánh nội đánh thành Tiếng dậy sấm ran chớp giật. Vua Thế-Tông(20) cao ngự đền rồng, chúa Bình Vương(21) ra tay dẹp loạn. Đông đoài nam bắc đâu đâu ngóng cổ làm tôi, hàng hải thê sơn(22) chốn chốn bó tay cùng phục. Công nghiệp nước nên công nghiệp lớn, phúc đức nhà thật phúc đức dầy. Bằng cháu(23) nay, gìn giữ nghiệp nhà, sửa sang việc nước. Thịnh tuy chẳng thịnh, hiền uy hội về(24), khôn ỷ chẳng khôn, long thái thượng ty(25) cũng phục. Còn chú nay, chuyên có hai châu(26), hẹp bằng một dải. Hầu mong cất binh hùng hổ, nhớ lời bà trước đã dặn dò: Lại toan sai đội Thủy Long, kính nghĩa ông xưa đã răn dậy(27). Còn đương việc nước há dám riêng nhà(28) Rày nhân công luận triều đường, vậy mới khâm sai nghênh tiếp. Trước vua quan vãng quan(29) tuần thú(30) xét dân tình tật khổ(31) thông hay(32) ; Sau mệnh tướng thống lãnh binh nhung, rước khám vị miếu về phụng tự(33). Mặc chưng liệu đấy, chớ khá cậy mình, chớ cậy rằng ải hiểm, non cao, khi thẳng trỏ đất bằng, trời tạnh; Chớ khá cậy rằng nước giầu, binh khỏe, khi ruổi giong mây sạch đường không. Anh hùng đâu chẳng anh hùng; Trí dũng nào hơn trí dũng. Ở chưng trong trường lạc(34), voi ngựa tuy nhiều; Sao bằng về chốn triều đình, quan tước thật trọng, binh quyền thật trọng, vua tôi một áng(35), hội rồng mây khá sáng Đường, Ngu(36), chú cháu một nhà, duyên cá nước xem bằng Tắc, Tiết(37). Thư điều cặn kẽ, mặc chú toan đương. Đặc dụ(38) ______________ (1) Chu-Tuyên-Vương (827-782) vị vua đã tạo sự cường thịnh cho nhà Chu sau một thời gian suy vi do vua cha là Lệ-Vương gây ra. (2) Chấn tu cương kỷ: gây dựng, sửa sang giềng mối cho quốc gia. (3) Bình ngoại khấu: dẹp giặc ngoài. (4) Tộ: phước, vận may của quốc gia. (5) Hán-Quang-Vũ: (25-57) Vị vua đã dựng nên nhà Đông Hán. (6) Diên lãm: Diên là mời; Lãm là nắm hết. Toàn câu: Mời rước hết những người hào kiệt về cùng phục vụ cho quốc gia. (7) Di nội nạn: San bằng những loạn lạc bên trong. (8) Ví : So sánh. (9) Giồi: tô lại nhiều lần, ở đây có nghĩa dùng văn trị nước, nước được yên (10)Thái Tổ: Vua Lê Thái Tổ, vua Lê Lợi (1428-1433) (11)Dùng xích kiếm dẹp tướng thiên triều: (12) Dùng một thước gươm dẹp tướng Trung Quốc. Có câu khen vua Lê Thái Tổ: Xích kiếm sơn hà, chỉ có một thước kiếm mà khôi phục được non sông. (13) Doanh thành: Đầy và trở nên, thành tựu và sung mãn. (14) Vào địa giới vén thu Nam quốc: mở rộng lãnh thổ.về phía Nam. (15) Thánh kế thần truyền: Những vị kế tiếp trị vì đều tài đức. (16) Trang-Tông: vua Lê Trang Tông (1533-1548) (17) Rủ áo: Chu Dịch, thiên Hệ Từ có câu: Hoàng đế Nghiêu Thuấn ngồi rủ áo mà thiên hạ vẫn được yên ổn, thái bình. (18) Chỉ Trịnh Kiểm. Khi chết Trịnh Kiểm được truy tôn: Minh-Khang Thái Vương. (19) Uy chấn bụi bờ: Quyền uy rung động khắp nơi. (20) Thế Tông: Vua Lê Thế Tông (1573-1599) (21) Bình Vương chỉ Trịnh Tùng. (22) Hàng Hải thê sơn: Vượt biển leo núi (23) Tráng là cháu nội của bà Ngọc-Bảo. Nguyên là con Nguyễn Hoàng. Nguyễn Hoàng là em Ngọc Bảo nên Tráng gọi Nguyên là chú và xưng là cháu. (24) Hiền uy hội về: Người đức tài đều phục vụ dưới trướng. (25) Long Thái Thương ty: ? (26) Hai châu: Thuận Hóa và Quảng Nam. (27) Cả câu: Muốn đánh nhưng nhớ lời dặn của ông bà ngày trước nên chưa hành động. (28) Cả câu: Nhưng vì trọng trách quốc gia không dám vì tình mà bỏ qua. (29) Vãng quan đến xem. (30) Tuần thú: Chi vua đi xem xét dân tình. (32) Thông hay: Hay biết rõ ràng tất cả. (33) Cả câu: Muốn đem cái khám đựng bài vị của Nguyễn Hoàng về Bắc để thờ. (34) Ở chưng trong trường lạc: Ở trong Nam thường vui sướng. (35) Một áng: một đám, một cụm, ở gần nhau. (36) Đường, Ngu: Đường Nghiêu (2457-2255) và Ngu Thuấn (2255-2208) hai đời vua có tài xưa, trị vì đất nước thái bình. (37) Tắc, Tiết: Hậu Tắc quan của vua Nghiêu; Tiết quan đời vua Thuấn. (38) Bức thư này do giáo sư Bửu Cầm phiên trích trong Thuận-Hóa Quảng-Nam thực lục. In lại trong Văn-Học Nam Hà của Nguyễn-Văn Sâm.
Bức thư Nguyễn-Phúc-Nguyên rả lời Trịnh-Tráng. Tài tuy có bên văn bên võ, đạo chẳng qua chữ hiếu chữ trung. Trời sinh nước An Nam chịu khí nước An-Nam, làm trai nước An-Nam, tướng quân mặt ấy, min(1) mặt ấy. Làm tôi vua Thái Tổ, ở thờ vua Thái-Tổ, tướng quân lòng nào min lòng nào? Hoãn cấp(2) đã từng, hiểm nghèo cũng trải. Trước nghịch bạo, làm loạn Chu Thử(3), muôn dân đều chịu lầm than; Sau Ngạn, Nga(4) dấy loạn Vương Đôn(5) đôi chốn xui nên ngờ vực. Lấy tay mặt đánh tay chiêu(6), đau cùng đau cả; Xui quân nhà đuổi quân ruộng, thiệt cùng thiệt tày. Cho nên phân bờ nọ cõi kia tượng cũng bởi ăn cùng nói khác. Sương nghiêm doanh liễu(7) tai từng nghe hiệu lệnh tướng quân; Mây thẳm đền phong(8) mặt nào thấy chiếu thư thiên tử.(9). Nuôi sĩ bốn phương, đãi sĩ bốn phương, vì cơn cớ ấy; Lấy quân ba phủ đánh quân ba phủ, tính chước(10) tài nào. Trị Xuân thu, tội Xuân thu(11) nghĩa vâng thánh trước; Đãi quốc sĩ, báo quốc sĩ(12) tiết học hiền xưa(13). Chẳng bằng tới hội Cố Lăng(14) , xá tua hợp binh Xích Bích(15); Lên thuyền Ôn Kiệu(16) đánh lái Tổ Công (17), diệt loài đảng ác, rạch thịt Hoàn Huyền(18) bêu đầu Vương Mãng(19) đem lại thần kinh, tôn miếu y quan, triều đình lại triều đình cũ Vương hầu tướng tướng, công nghiệp hơn công nghiệp xưa. Tư phụng thư đáp.(20) _________________ (1) Min: Tiếng người trên xưng với kẻ dưới. (2) Hoãn cấp: Lúc thong thả và khi gấp rút. Chỉ lúc có việc cần. (3) Bạo: là Lập-Bạo, tướng nhà Mạc đi đường biển vào đánh chúa Nguyễn-Hoàng bị tử trận, Chu Thử Sống thời Đường-Đức-Tông (780-804) làm loạn thua bị bộ hạ giết. (4) Các tướng Phan Ngạn và Ngô-Đình-Nga của nhà Lê nổi lên đánh Trịnh tại cửa bể Đại-An, Nguyễn-Hoàng lấy đó làm cớ xin đi dẹp rồi xuôi Nam luôn. (5) Vương Đôn người đời Tấn muốn soán ngôi vua bị dẹp. (6) Chiêu: bên trái. (7) Sương Nghiêm doanh Liễu: Chu Á Phu đóng quân ở Tế-Liễu, quân lính kỷ luật, tướng nghiêm. (8) Đền phong: Đền vua, trước điện vua thường trồng cây phong. (9) Cả câu có nghĩa là chỉ thấy Trịnh Tráng ra lệnh mà không thấy chiếu chỉ của vua. (10)Chước: Mưu kế. (11)Trị Xuân Thu, tội Xuân Thu: Xuân Thu là tên bộ sử do Khổng-Tử soạn ghi lại những tội và lỗi lầm của nhân vật đời Xuân Thu để dậy đời. (12)Dự Nhượng nói với Triệu Tương Tử: “Phạm Trung Hành đối sử tôi như kẻ tầm thường, tôi lấy tư cách người tầm thường đáp lại. Trí Bá đãi tôi vào hàng quốc sĩ, tôi lấy khí tiết của kẻ quốc sĩ mà báo đáp.” (13)Tiết học hiền xưa: Học khí tiết của người xưa. (14)Cố-Lăng: Hạng Vũ bị Hán Cao Tổ đuổi tới nơi này. (15)Xích-Bích: nơi Chu Du đại thắng quân Tào Tháo. (16)Ôn Kiệu: Người đời Tấn Minh Đế, khi đi thuyền qua Ngưu Chử Cơ có đốt sừng tê giác để xem những quái vật dưới nước. (17)Tổ Công tức Tổ Địch người đời Tấn Nguyên Đế khi đem quân dẹp giặc đã vỗ mái chèo thề:”Nếu không thắng sẽ không trở lại sông này.” (19)Vương-Mãng: loạn thần đời Tây Hán. (20)Xin coi chú thích số (38) thư trên. Sách tham khảo: 1- Theo Đại-Nam Liệt Truyện Tân Biên và Việt Cầm Sử Thoại trích dẫn Trong Việt-Nam Ca Trù Biên Khảo của Đỗ Bằng-Đoàn và Đỗ Trọng-Huề 2- Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. 3- Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Thời Chí 4- Văn Học Nam-Hà của Nguyễn-Văn-Sâm.
|