Hải Phòng |
Tác Giả: Tô Hoài | |||
Thứ Ba, 01 Tháng 3 Năm 2011 12:31 | |||
Chẳng qua vì tôi không bấu víu vào đâu được nữa tôi phải “lên đường” đi cầu may Tôi nhớ đến Cư. Ở trường Yên Phụ ngày trước, anh em đặt tên cho nó là thằng hộ pháp Cư. Vì Cư to lớn nhất lớp. Mỗi ngày không làm ăn gì bây giờ thật là dài. Đây là những người bạn cuối cùng mà tôi điểm mặt. Dù thế nào nó vẫn có giá trị của cái bọt, cái ván mục lều bều trước mặt người trôi sông, lẽ nào tôi không hy vọng. Tôi đi tìm Cư. Qua cái ao nhỏ, xanh cứng những đám sen Nhật. Một gốc cây gạo to chắn giữa ngõ càng thêm chật chội lối đi Những chiếc hoa gạo đỏ chói mắt, những con quạ, con sáo rỉa hoa rụng xuống, làm cái ngõ lầy lội thêm. Đấy là cuối phố Ngọc Lâm bên kia sông, lối vào nhà Cư. Thằng Cư ở nhà một mình. Nó cởi trần, đánh cái quần đùi đen. Tôi chưa biết mặt bố nó, mà sao tôi trông nó thật giống hệt bố nó. Sự kỳ lạ đó xảy ra chỉ vì mặt nó vẫn bạnh quai hàm như thằng Cư năm trước, nhưng trên mép nó lại lún phún tý ria. Nói cho đúng, những sợi râu ngô hoe đỏ mọc loăng quăng. Nó già hẳn đi, tiếng nó vỡ, ồm oàm, rề rà, chậm rãi. Không còn cái vẻ thoăn thoắt lúc nó dá cầu, đá bóng đứng “arie"(1), đạp cái nào thì gãy "tybịa"(2) người ta như chơi. Ít khi lắm mới nhặt được vài ba xu. Khách đi tàu đường Bưởi, đường Hà Đông người đeo đãy tơ, người gánh rau muống, gánh giấy, gánh nước vo gạo, còn tất bật lo chen lên chen xuống, chẳng ai rỗi tai mà nghe rao sách đạo. Bây giờ Cư rủ tôi đi bán sách đạo. Tôi cứ nghĩ tôi ôm một chồng sách nhảy lên tàu, kể lể những câu bên đạo rồi chào mọi người hai bên mua sách, mà phần nhiều là bà con trong làng tôi xuống Kẻ Chợ. Tôi thà chui đâu thì chui. Lại Phú Cương cho tôi một đồng bạc lấy vé đi tàu. Trước hôm đi, tôi đến phố Bắc Ninh tìm Hồ. Hồ mơ màng nhìn ra đường, nói một câu kiểu cách quen thuộc. Nếu mọi khi nghe dễ ghét, nhưng hôm ấy tôi lại thấy cảm động. Chẳng qua vì tôi không bấu víu vào đâu được nữa tôi phải “lên đường” đi cầu may. Hồ biết cả. Cái tật của anh hay nói khuếch trương thế thôi. Nói xong câu bóng bẩy ấy, Hồ lấy trong cái hòm gỗ khoá chuông ra, đếm được hai mươi quyển Ái tình luận. Đưa cho tôi, Hồ nói: Hồ đã thường cắt nghĩa cho tôi nghe về cái thuốc tràng sinh này. Ái tình luận là sách của Hồ viết. Ái tình luận, tác giả Song Hồ. Quyển sách tám trang in, kể cả tờ bìa mỏng như tờ giấy thường. Sách giấy màu xanh, trong có những câu châm ngôn của danh nhân đông tây mà Hồ sưu tầm, in lẫn với những câu nhạt như nước ốc của Hồ bàn về tình yêu. Làm thế nào Hồ in được quyển Ái tình luận và in bao giờ, tôi không biết. Quyển sách không đề ngày tháng soạn, ngày tháng in. Do vậy, lúc nào nó cũng mới. Tôi biết giá trị của Ái tình luận là lương ăn như bánh dày khô. Mỗi lần đi xa, anh giắt lưng theo ít quyển. Có lần anh mang một trăm quyển Ái tình luận, chỉ bán cho khách trên tàu, mà đủ tiền vé tiền ăn vào tận Sài Gòn. Như bán sách bên đạo ấy mà... Một ngày nọ, thế là tôi đi Hải Phòng. Nhiều bạn lên tiễn ở Đầu Cầu. Kẻ ở người đi đều hao hao cái hào hùng bi tráng rất tuồng về tâm sự Kinh Kha và người vĩnh biệt Kinh Kha mà cái ga Đầu Cầu này là bờ sông Dịch. Những người đi tiễn đều trợn mắt, tóc dựng đứng xiên lên mũ. Thế rồi Kinh Kha lên xe, không ngoảnh lại. Thế mà cũng có thơ đi thơ tiễn. Tôi nhớ hai câu trong bài thơ hơi hướng Thế Lữ của tôi gửi lại các bạn ở ga Đầu Cầu: Lúc tàu sắp chạy, thấy Cư đến. Thằng Cư ôm một bọc sách, chắc là sách bên đạo. Dáng hẳn Cư muốn cho tôi đem đi những quyển sách Tin Lành. Cũng để làm lương ăn đường. Tôi hỏi thăm đến đường Cát Dài, tìm được nhà Cần. Sau này, mỗi khi nhớ đến vợ chồng bạn, bao giờ tôi cũng bồi hồi và nghẹn ngào không biết chữ nào nói hết được cuộc sống chúng mình ngày ấy. Trong nghề viết của tôi, ví như ai khuyên tôi dựng nhân vật phải theo quy luật cuộc sống - họ nói thế, nhân vật phải gồm hai mặt tốt và mặt xấu. Nếu có khi nào viết về Cần, về một người như Cần, tôi đành chịu có muốn cũng không thể làm theo lời khuyên ấy được. Lòng tốt của Cần và tình thương của vợ chồng anh đối với tôi không biết có “quy luật hai mặt” ấy. Nhưng tôi đã thực sự lo. Không lo sao được! Có gì ăn nấy thì chưa biết, nhưng có thế nào ở thế ấy thì tôi không hiểu ra sao. Vào nhà, lên đến chỗ Cần ở phải đi suốt cái gác hai, rồi qua một hành lang nhiêu khê lắm mới tới. Có lẽ đây là cái buồng tắm cũ. Kê vừa vặn được chiếc giường nhỏ. Thò chân ra ngoài thành giường, đã đụng vào tấm cánh sáo che hiên. Vợ chồng Cần có hai hòm khoá chuông để dưới gầm. Mọi thứ, quần áo và cả gạo, thức ăn đều đựng trong hòm. Cái hoả lò thổi cơm cũng nhét gầm phản. Buồng không cửa, chỉ có chiếc cánh sáo mà tối đến, lúc ngủ mới buông xuống được. Bấy giờ đã sang tháng tám, đêm se se lạnh. Ngày ngày tôi đi dạo trong thành phố tha thẩn tìm việc rồi cứ liệu đến bữa về ăn cơm, tối thì rúc vào nằm trong cùng cái giường ấy. Cần nằm giữa. Vợ Cần nằm ngoài. Những tháng sau, khi trời rét hẳn rồi tôi kéo ghé một tí cái chăn dạ. Ngày lại ngày, tôi đi tìm việc. Thấy cái giấy dán ở đầu tường nào tôi cũng đến đọc, thấy cửa hiệu to, tôi ghé nghiêng nhòm vào rồi hỏi. Chẳng đâu ăn thua. Tôi đã ăn hết tiệt cả hơn hai chục quyển Ái tình luận. Mà ngủ đêm ngoài đường thì rồi cũng có ngày đội xếp bắt. Mỗi hôm mỗi lo. Trong thành phố, ở các vườn hoa hay bất cứ một bãi cỏ rộng nào, đều đen ngòm những thùng tông ét xăng. Hồi ấy, người Pháp để cho Tưởng Giới Thạch đưa ét xăng vào Hải Phòng, rồi lại cho thuê đường tải lên phía bắc. Trên biên giới, từ các cửa quan Chi Ma, Pò Mã, Phục Hoà, Tà Lùng hay Bình Mãng, Bình Nghi trở ra đất Trung Quốc, các xe ô tô chở ét xăng cho Tưởng Giới Thạch bị máy bay Nhật đuổi, bom bắn suốt ngày đêm. Lái xe từ Hải Phòng lên, rồi vượt biên giới là những tay cảm tử, nhưng kiếm bẫm. Cô đầu, nhà thổ tiệm nhảy, cao lâu ở Hải Phòng bấy giờ, người ăn chơi những chốn ấy chỉ riêng có hai hạng lắm tiền, là các tay tài xế chí tử và những nhà giàu bên Tàu chạy loạn Nam Kinh, Thượng Hải sang. Loanh quanh, tôi lại về nhà Cần. Tôi cứ ngần ngại, chứ Cần thì bao giờ cũng chỉ cười hề hề. Vài hôm, Cần lại khoe với tôi: "Thế thì đúng mình là cháu cụ Đặng Trần Côn, chi mình là Đặng Khắc, cụ là Đặng Trần”. Nhưng nghe tôi cắt nghĩa thế, Cần biết thế, chứ Cần cũng chẳng biết Chinh phụ ngâm là quyển sách gì - tôi đoán vậy. Ngày nào Thuý cũng đi chợ. Suốt tháng chúng tôi ăn toàn giá luộc, rau luộc. Thỉnh thoảng, đi dạo phố. Có khi Thuý hẹn mấy cô bạn, hình như làm gái nhảy ở tiệm nhảy nào đấy, cùng đi chơi. Tận khuya mới về và mỗi người làm một bát phở thay cơm. Hôm ấy là tiệc chủ nhật. Ở tầng hai có nhà ông phán Quý, đối diện cái hang của chúng tôi. Nhà ông Quý rộng gấp mười nhà chúng tôi. Ông ở ba buồng, một buồng để làm bàn thờ tổ tiên oai nghi những đồ đồng và các thứ sơn son thếp vàng. Ông lại chiếm thêm cái hành lang đi vào bếp với hai buồng xép con con như cái cũi đựng củi. Những nhà ở trong cùng, khi ra phải đi qua hành lang và trước cửa nhà ông phán. Hàng ngày tôi ra vào qua nhà ngoài, qua hiên, trông xuống sân sau nhà dưới, đi trên những đám khói bếp bốc đặc sệt, cay đến chảy nước mắt, trong tiếng dội nước ào ào, mọi người các nhà cãi nhau liên miên, tưởng không bao giờ ngớt nghe mãi hoá nhàm tai vì tiếng chửi bới cũng giống tiếng nước chảy rào rào mà thôi. Tôi đi đều đặn giờ giấc như người đi làm - chỉ khác là chẳng đi làm gì. Đầu tiên, tôi dạo một lượt khắp các phố. Bao nhiêu lần mà vẫn không nhớ phố nào phố nào. Trong lòng rối như tơ vò, còn biết được đi đâu về đâu. Tôi có cảm tưởng đây không phải thành phố Hải Phòng trong tưởng tượng, khi tôi chưa đến. Cả đến cái nhà ông phán Quý cũng chẳng có gì lạ. Đường phố Hải Phòng cũng như quang cảnh nhà ông phán Quý chẳng bận đến tôi. Mỗi bên có một cụ già, gầy gò, nhăn nheo không biết tuổi thế nào. Hai cụ đều đầu trọc nhẵn. Nếu một cụ không có bộ râu bạc tua tủa, chẳng thể biết cụ ông hay cụ bà ở cũi bên nào. Cụ bên này ngồi nhìn ra, cụ bên kia quay mặt vào tường. Chưa bao giờ thấy được hai cụ ngồi nhìn sang nhau. Như xấu hổ với người qua lại, lại vừa như ghét nhau. "Ai" đây tức là hai cụ già. Biết tôi mới đến, ông phán Quý cắt nghĩa cho tôi nghe: Tôi được biết đấy là hai cụ thân sinh của ông phán và ông phán đã nghĩ ra mẹo ngăn các cụ cho khỏi cãi nhau đánh nhau bằng cách phạt giam bố mẹ mình vào cũi như vậy. Tôi vẫn mải miết đi tìm việc. Tôi không hiểu Cần băn khoăn về cuộc đời theo nghĩa đen hay nghĩa bóng, còn tôi thì đương nghĩ đến một cái gì mơ hồ buồn lắm. Ngoài bến Sáu Kho, đậu những con tàu trắng toát, những con tàu xám ngắt, thỉnh thoảng những con tàu ấy từ ngoài biển vào đỗ giữa những đám thuyền tam bản rách nát, đen xỉn, lờ đờ bơi quanh bờ nước. Vài hôm, con tàu đại dương lại rời cảng ra khơi. Tôi đứng trông theo, ước cái thân được như con tàu. Viển vông thế thôi, chứ mình đương khác nào đám thuyền buồm rách, cuộc đời ngập trong vũng nước của bến sương mù buổi sáng từ mặt đất bốc lên, không trông xa quá vài bước. Mỗi ngày qua, chồng chất những nghĩ và nghĩ. Làm sao ở yên mãi được trong cảnh cái giường một mà ba người nằm thật oái oăm này. Bây giờ còn lạnh, ít nữa, mùa hè nóng nực tới thì sao. Vợ chồng Cần lặng lẽ và bình thường đến nỗi tôi tưởng tôi có thể ở một cách thản nhiên thế mãi và tôi chỉ giật mình khi tự xét thấy làm người mà phải nằm ngồi rúc ráy đến như thế thì tủi nhục quá. Tôi có cảm tưởng mọi người ở nhà dưới, nhà trong đang căng mắt nhìn "cái thằng ba người một giường" đi qua... Làm sao không tò mò và kinh tởm nữa. Mà Thuý thì bụng đã khạng nạng gần tới tháng đẻ. Tôi nóng ruột, phấp phỏng, như một việc gì ghê gớm có thể xảy ra. Tôi trông xuống thấy ở đầu cầu thang có một đống giấy đương cháy trong khi, bà phán, mặt xám ngắt, khểnh chân bước lại bước qua đống lửa. Vợ chồng Cần nghe to tiếng đã chạy ra, Thuý khóc bíu lấy Cần, mới can được Cần khỏi xông vào đánh phán Quý. Cần không hay cười hề hề, không hay nhắc lại cho tôi biết Cần là cháu ông Đặng Trần Côn nữa. Những lời nghi kỵ và xúc phạm kia không gây một điều nghĩ ngợi nào trong chúng tôi nhưng đã khiến chúng tôi đau đớn, nhức nhối trong lòng. Tôi vẫn miên man mải miết, qua từng phố. Thấy cửa hiệu nào có quầy trả tiền, có người đứng bán hàng, hay có người ngồi ghi ghi, chép chép, tôi hiểu là ở đấy có việc làm, có thể mượn người làm, tôi vào hỏi. Bà phán càng quá hơn, ngày nào cũng chửi. Bây giờ ai cũng biết là bà chửi chúng tôi. Bà lên xuống, giọng thánh thót. Bà réo thẳng bọn "ba thằng ngô con đĩ ", không úp mở nữa. Tôi càng bồn chồn. Trong cung cảnh đáng điên tiết như vậy, tôi cứ tưởng như bất chợt có thể phải đổ máu gãy chân gãy tay không biết chừng. Càng sốt ruột, càng lo. Một hôm, giữa phố Khách chật chội chen chúc người đi có cái xe bò chở rác lộc cộc qua. Người phu lục lộ lắc chiếc chuông đồng buộc bên càng xe. Hai bên phố nghe tiếng chuông, chạy xô ra, xúm xít bíu quanh xe đổ rác. Người phu lắc chuông lúc nãy đứng cầm cái rĩa sắt, thấy tý rác nào dùng được, một miếng vải cũ, một cọng rau muống còn chiếc lá tươi, một cái lọ con con, người ấy xọc rĩa, nhấc lên, lấy ra, bỏ vào cái giỏ riêng của mình treo dưới thành xe. Tôi để ý một anh đương khom khom trong nhà bưng sọt rác chạy qua. Anh mặc bộ quần áo nâu bạc. Sao mà giống cái thằng Tường hồi cùng học lớp tư trường Yên Phụ với tôi. Giống đến nỗi tôi phải buột miệng gọi: Tôi còn nhiều lần đi qua cái phố Khách. Mấy phố khách lủng củng người và xe hàng, toàn những hiệu buôn của người Trung Quốc. Tôi trông thấy Tường ở trong cái cửa hàng chất đầy bao bì phồng to. Đấy là cửa hàng đường. Suốt ngày rậm rịch những người phu khuân vác, đầu trọc, cả đến vuông vải lót vai cũng ướt đường và đẫm mồ hôi. Những bì dường cao hơn đầu nằm nghiêng trên vai, họ chạy rầm rầm vào kho, ong bay theo à à, ai trông thấy cũng phải tránh dạt ra. Tôi thấy Tường, khi quét nhà, khi quẩy nước, có khi cởi trần bổ một đống củi tạ ngay trên bờ đê - công việc hàng ngày của thằng nhỏ hầu hạ chủ nhà. Có lúc tôi đi vòng quanh cửa hiệu ấy mấy lần rồi quả quyết vào. Nhưng cứ sắp bước sang hè đường, tôi lại thôi. Có lần bạo hơn, đã sang hẳn bên thềm, đặt chân vào nhà rồi, tôi trông thấy thằng Tường chăm chú lúi húi trước cái chậu đựng nước bẩn và cái giẻ lau để rửa quầy đặt những cái cân tạ, mà ruồi, nhặng, ong cứ vù vù bay. Tôi toan gọi Tường, nhưng rồi tôi lại hốt hoảng lủi ngay vào đám người đang nhốn nháo qua trên hè phố, chốc chốc lại xiên ngang một tốp phu hùng hục khuân những bì đường. Một hôm Thuý hỏi tôi: Tôi sẽ mạnh bạo lên. Alaxô! Alaxô! Vâng, tôi sẽ mạnh bạo lên. Ô hay, tôi đã cảm kích về cái kế xoay xoả cho tôi có thể sống tạm như thế, của Thuý. Tôi sẽ làm... Thuý đã dạy khôn cho tôi nhiều lắm. Mạnh bạo lên, xông vào, mạnh bạo lên. Chiều chủ nhật, vợ chồng Cần và tôi ra phố. Họ dẫn tôi đến chỗ phải thử thách. Tôi nhớ mang máng cái gác nhà các cô bạn Thuý ở gần chợ Cột Đèn. Vừa nhô lên khỏi mấy bậc thang gỗ ở góc nhà, đã trông thấy bốn năm cô nằm ngổn ngang, ngay đầu sàn. Trước mặt tối om, suýt bước qua mà không biết. Đến lúc trông đã tường thì thấy có cô ngủ, cô cởi trần, cô mặc coócsê. Có cô chỉ có cái xi-lip nồng nỗng. Mới vào tự nhiên là thế đấy. Tôi cũng bình tĩnh, chẳng lo lắng quái gì. Lập tức, các cô nháo nhào xông đến trước mặt tôi và cả mấy cô xoè tay cùng một lúc "Anh nhể cho em con cái... Anh làm ơn... Em trước... Em trước...". Thế là, tuy mới chân ướt chân ráo, nhưng đã được các cô vật nài, khẩn khoản như thân tình từ bao giờ. Thuý cứ cười nháy nháy mắt nhìn tôi, ý giả Thuý đương đánh giá cho điểm và thấy được bước đầu như vậy là khá thuận buồm. Tôi vẫn tự nhiên, lặng lẽ, bình thường. Bởi vì tôi cũng thạo tìm đường ghẻ ăn trên bàn tay, ở cả kẽ chân, tôi biết nhể cái ghẻ thật. Tôi vẫn biết Thuý có quen mấy cô gái nhảy. Hay Thuý trước cũng làm nghề ấy, tôi không biết. Trong con mắt người đói việc, nhảy đầm cũng là nghề làm ăn bình thường. Và khi Thuý nói, tôi nghĩ đến những tiệm nhảy Pagốtđông hay Phêgát, Pécgôla hoặc xoàng ra, cũng Tài Á hay Lục Cảnh ở giữa thành phố mà đêm đêm các cô gái mỹ miều trong ánh đèn xanh đỏ với tiếng nhạc rập rình. Nhưng những cô gái nhảy nhà gần chợ Cột Đèn này không có được cái tốt mã và tốt số (Hay là tại tôi chưa được trông thấy giữa ban ngày một cô gái nhảy nào). Tôi có cảm tưởng các cô này cười cười nói nói đấy, nhưng sau tiếng cười, nét mặt đã ủ ê ngay lại. Cô nào cũng hốc hác hoặc sệ ra, vẻ mệt mỏi. Cô nào cũng già úa. Lúc nãy, họ gọi tôi là "chú em" cũng có lý. Những cô này đích thị gái điếm, không phải gái nhảy. Hoặc có làm tiệm nhảy cũng chỉ đến châm đèn, bưng nước, sai vặt. Chứ ai mà nhảy nhót với các cô nhày nhụa như thế. Nghĩa là, tôi cứ nhận xét chơi thế, trong khi lời Thuý dặn, tôi vẫn đinh ninh. Tôi đương một xu không dính túi, đương định “làm tiền" lại của cô gái làm tiền. Ví với cái giẻ lau tôi cũng chưa dáng, cành cao lá dài đâu mà khen chê ai. Tôi ngồi đối diện một cô gầy nhất bọn - như cái que đóm lưng cũng cong cong như cái dòm mỏng. Hình như Thuý muốn sắp tôi gần cô khác, nhưng tôi đã ngồi vào đấy rồi không tiện đổi chỗ. Cô này chắc có bệnh gì. Mặt cô xanh lướt: Tôi nhớ có lần có đọc quyển truyện gì của Muytxê(6) tả cảnh đám đông ngồi ăn hai bên cái bàn, có người con trai tỏ tình với người con gái, người con trai đặt nghiêng chân mình lên chân bạn ở dưới gầm bàn. Nhớ thế, và bắt chước ngay. Tôi đoán ước phỏng ra cái chỗ chân cô gầy guộc ngồi trước mặt tôi, tôi nhẹ nhàng đặt chân tôi xuống. Ăn ốc bao giờ cũng vui nhộn vì những tiếng húp soàn soạt, tiếng xuýt xoa ớt cay. Các cô nghề này chỉ thích bún ốc. Tôi cứ để yên chân tôi như thế. Cái chân tôi đụng phải mà nàng vẫn lặng im, thế là bằng lòng rồi. Tôi bỗng bàng hoàng nửa mừng nửa sợ như thấy cái giao kèo bí mật của đôi bên đã xong. Rồi cuộc đời tôi sẽ như thế nào, từ đây. Bỗng nhiên, suỵt một cái, nếu không nhanh tay, tôi đã bị ngã tụt xuống gầm bàn. Cái chân cô kia đột ngột thúc gót một cái mạnh quá. May tôi chỉ để sánh ít nước ốc và cái bàn hơi rung. Khi đó, mọi người chợt cười vang và có lẽ không ai hiểu mình cười gì. Tôi thì tôi đương chín cả người. Tôi nghĩ họ cười tôi Cái cô kia vừa đá ngầm tôi cũng cười như mọi người và cô vẫn tuần tự gỡ từng con bún xuống bát mình. Từ đấy đến lúc về, tôi câm hẳn, không nói được câu nào nữa. Thuý cười ngặt nghẽo: Nhưng khi nghe Thuý nói thế, trong tôi lại nảy một nhận xét và mong manh một hy vọng khác. Hay là mình đã quặp nhầm chân cái cô bên cạnh, cô khác, không phải cô gầy gầy trước mặt. Nó thế nào chứ mình có thò chân sang đường đột lắm đâu. Có lẽ vậy, vì thấy mặt nó vẫn bình thản, và nó vẫn gỡ bún. Nhầm thật. Nếu thế phải làm lại, một dịp khác, sẽ làm... Tôi nghĩ loăng quăng xa gần cả đêm. Sáng hôm sau, tôi ra đường sớm. Nhưng không phải tôi đến cái gác gần chợ Cột Đèn để tìm cách làm lại cái quặp chân. Tôi chỉ mạnh bạo lúc nghĩ vẩn vơ. Chưa mấy khi đêm nghĩ hung hăng thế, sáng hôm sau lại đi làm thế được. Trời sáng, tôi có cảm tưởng mặt tôi đã bệch ra vì nỗi lo, và lại tủi thân. Tôi không thể làm thế. Thuý rất tốt. Nhưng chết thôi, chết thì thôi tôi không thể thảm hại đến vậy. Tôi lại đi vẩn vơ qua những phố Trung Quốc, phố Đông Kinh, các phố có nhiều cửa hiệu, tôi lại vào hỏi xem có hiệu nào mượn người làm không. Mà trước khi hỏi đã biết khó lòng có. Tâm sự người hỏi việc càng nẫu ruột. Những nhà tây cao đẹp, nhưng cửa đóng, tôi không dám vào. Tôi đã nhiều lần vào hết các hiệu khách ở phố buôn bán. Không còn chỗ mới nào hỏi nữa. Mỗi đêm, nghe tiếng còi tàu thuỷ rống "tun tun" ngoài cảng, như nghe tiếng gọi của hy vọng. Những cái tàu kéo còi chào bến để nhổ neo, niềm hy vọng vu vơ chưa đến đã ra đi rồi. Từ sớm, bà phán Quý đã bắc ghế ngồi trong nhà chửi vóng ra. Tiếng bà rin rít vi vút trên đầu tường. Lúc đi qua, tôi đã biết thế. Tôi không trở lại nhà Cần tối hôm ấy. Tôi cũng không nói cho vợ chồng Cần biết tôi đi đâu. Trong túi không còn một chinh. Nhưng tôi lại trở về Hà Nội. Kinh Kha không kiếm được việc cũng không dám chết ở đất khách, đành cuốc bộ về Hà Nội, Kinh Kha cuốc bộ về...
|