Henri Dunant |
Tác Giả: Vietsciences- Võ Thị Diệu Hằng |
Thứ Ba, 14 Tháng 4 Năm 2009 05:39 |
Henri Dunant (1828-1910), nhà bác ái Thụy Sĩ, sáng lập Hội Hồng Thập Tự, Giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1901. Là học sinh kém, cậu Henri chỉ mang về những phần thưởng về lòng ngoan đạo. Cậu đi thăm những người nghèo, bệnh nhân và tù nhân. Ham đọc Thánh kinh, năm 1847 cậu thành lập một nhóm đọc kinh thánh với những người cùng tuổi tên là Họp mặt thứ Năm, nhóm này, năm 1852 sẽ rở thành "Hội liên hiệp Thiên chúa giáo những người trẻ" (les Unions chrétiennes de jeunes gens). 1849: Henri Dunant bắt đầu học nghề tại nhà băng Lullin&Suter và được gởi đi làm việc tại Algérie. Ông mơ ước làm phồn thịnh và kỹ nghệ hóa nước này. Năm 1855 chính quyền Pháp chấp nhận nhường đất Algérie cho ông lần đầu tiên. Ông xây một cối xay gió nhưng không nhận được câu trả lời về việc phát triển trong tương lai của ông trong lãnh vực này 08/01/1858: Hội đồng nhà nước Genève cho phép công ty vô danh Moulins de Mons-Djemila do Dunant thành lập. Năm 1858 ông in quyển sách đầu tiên, Notice sur la Régence de Tunis [An Account of the Regency in Tunis], viết lại những quan sát khi ông du lịch, trong đó có một chương dài rất được người ta chú ý, mà ông in rời ra năm 1863 có tựa đề là Sự nô lệ nơi những người hồi giáo và Hoa Kỳ (L'Esclavage chez les musulmans et aux États-Unis d'Amérique, Slavery among the Mohammedans and in the United States of America). Quyển Kỷ niệm có 3 chủ đề: Thứ nhất là chính cuộc chiến. Chủ đề thứ hai vẽ lên chiến trường sau trận đánh, cái hỗn độn vô thứ tự của nó, sự thất vọng không thể nói ra được, sự khốn khổ về mọi thứ và nói tới câu chuyện chính là gắng cứu chữa những người bị thương trong một làng nhỏ của Castiglione. Chủ đề thứ ba là một phương án. Các quốc gia phải tạo một phương cách để, trong thời bình thì thành lập những cơ quan cấp cứu mà chủ đích là săn sóc những người bị thương, và trong thời chiến thì những người tình nguyện nhiệt tình, tận tụy và thật rành nghề cho một công tác tương tự. 4/1859: Lập luận rằng vì xuất thân từ một gia đình bị trục xuất ra khỏi nước Pháp vì lý do tín ngưỡng, ông xin được vô quốc tịch Pháp để tiến hành nhanh công việc đang ứ đọng tại Algérie. 25/06/1859: Không được cơ quan hành chánh trả lời về chuyện thuộc địa của ông tại Algérie, Dunant muốn trình bày trước Napoléon III nên tới nước Ý, nơi mà hoàng đế đã tới để giao chiến với nước Áo, bên cạnh người Ý. Sáng hôm sau khi tới Solferino ông tận tình lo cho các thương binh bị bỏ rơi vì ban vệ sinh không đủ người. Tháng Hai ngày 7 năm 1863 Cơ quan xã hội Genève chỉ định 5 người trong đó có Dunant, để quan sát tình hình để hành động. Với lời kêu gọi của cơ quan này trong hội nghị, hội Hồng Thập Tự ra đời. Dunant đi khắp Âu châu và được các nước hứa sẽ gởi đại diện. Hội nghị ngày 26 kéo dài tới 29 tháng 10 với 39 đại biểu của 16 nước. Và tháng 8 năm 1864, 12 quốc gia ký kết hiệp ước quốc tế, đó là Hiệp ước Genève. 09/02/1863: Cơ quan xã hội Genève quyết định thực hành ý định của Một kỷ niệm ở Solferino và hình thành một ban "Ủy ban quốc tế cứu trợ những người bị thương". Đây là mầm móng cho CICR tương lai (<>Comité international de la Croix-Rouge). Dưới sự hiện diện của tướng Dufour, ủ ban họp với bác sĩ Docteur Louis Appia, Théodore Maunoir, Gustave Moynier và Henri Dunant. 1863-1864: Dunant đi khắp âu châu để loan truyền ý tưởng của ông cho các cơ quan tình nguyện cứu trợ những người bị thương. Từ ngày 26 đến 29/10/0863, một hội nghị chuẩn bị họp hội các đại diện của 14 quốc gia tại Athénée, Genève. Hội nghị ngoại giao từ ngày 8 tới 22/8/1864 đưa đến Hiệp ước Genève trong đó có 10 điều trong hiến chương của Hội Hồng Thập Tự sau này. 1867: Đáng lẽ Dunant được mời tới triều đình nước Phổ để được quàng vòng hoa vinh quang nhân cuộc Triển lãm Hoàn vũ Paris thì ông lại dấn thân vào những kinh doanh may rủi (công ty vô danh Moulins de Mons-Djemila). Ông bị phá sản. Các tòa án Genève kết án ông đã "cố tình đánh lừa các cộng sự viên của ông". Sau khi bị phá sản tan tành, Gustave Moynier ép buộc ông phải từ chức khỏi Ủy ban. Ông đã thi hành việc này ngày 25/08/1867 và từ giã Genève để rồi không bao giờ trở lại. 1867: cho ra "Thư viện thế giới và toàn năng" (International and Universal Library) nhằm phổ biến các đại tác phẩm của mọi nền văn hóa qua mọi thời gian và có ý qua trung gian của Ủy ban cho Palestine mà ông đã sáng lập dùng để ưu đãi những người Do Thái về Palestine bằng cách thiết lập hai quốc gia Arabe và Do Thái, được Napoléon III bảo trợ. Song song với việc trên, ông cũng sáng lập Cơ quan quốc tế toàn năng để khôi phục miền Đông (Société internationale universelle pour la rénovation de l'Orient, the Universal and International Society for the Revival of the Orient) nhằm tìm một phương án để tạo ra một khối trung lập ở Palestine. 1870-1871: Chiến tranh giữa Pháp-Đức. Dunant thấy rằng cuộc chiến tranh mới này là cơ hội để ông phục vụ cho nhân loại một lần nữa. Ông lập ra một tổ chức song song với Hồng Thập Tự, Cơ quan phụ trợ cứu những người bị thương (Société auxiliaire de Secours aux bléssés), và chắc chắn vì thấy những cuộc tàn sát kèm theo quận Paris bị mất, nên ông triệu tập cuộc họp để thành lập một "Liên Minh toàn năng cho trật tự và văn hóa" (Alliance universelle de l'ordre et de la civilisation) để nói lên sự cần thiết của một hiệp ước quốc tế về việc nắm giữ các tù binh chiến tranh và để dàn xếp các cuộc tranh chấp quốc tế nhờ tòa án làm trọng tài hơn là gây chiến tranh. Ông xoay sở để sống, viêt những bài tiểu luận... Bị ám ảnh hoàn trả số nợ lớn, ông mơ thành lập những hãng xưởng kỳ diệu chỉ có trong trí tưởng tượng mà thôi Năm1872 và 1873, bên Anh quốc, Dunant buộc phải làm nhạy cảm công luận về vấn đề các tù binh chiến tranh cho Hội Hồng Thập Tự lúc bấy giờ do Gustave Moynier lãnh đạo, chỉ mới bắt đầu hướng đến. Ông định truyền bá ý tưởng một tòa án làm trọng tài để giải những cuộc đụng độ quốc tế Theo người ta kể lại , Dunant sống những năm lang thang nghèo khổ khắp Âu châu. Và có nhận của gia đình số tiền trợ cấp nhỏ nhoi đủ để ông sống qua ngày. Ông có liên hệ với một người đàn bà góa giàu có, Léonie Kastner và với bà này, ông làm đại diện cho nhạc cụ dị kỳ do con trai bà này sáng chế, đó là Pyrophone, nghĩa là Lửa hát. Sau đó là những năm tối tăm của ông, ông di chuyển liên miên, khó mà theo dõi được. 1892: Dunant dừng lại vĩnh viễn tại Heidn (Appenzell) mà tới năm 1895 người ta mới nhận ra ông. Ông muốn chứng minh vai trò của ông trong việc sáng tạo Hội Hồng Thập Tự mà lúc bấy giờ được nổi tiếng khắp nơi trong lúc tại Genève tên ông hoàn toàn bị bỏ quên. Ông thực hiện việc viết bài tự thuậtcủa mình, nhưng đã mòn mỏi vì cuộc sống nay đây mai đó và vì là nạn nhận của sự hành hạ không ngừng nên ông không thể sắp thứ tự những ý tưởng của mình. Quyển "nhật ký" của ông hãy còn là một hỗn độn dở dang. 1895: Bài viết được đăng trong tờ báo Saint-Gall gây ra những phản ứng khắp nơi trên thế giới. Ý tưởng của Dunant đã thay đổi, ông không chỉ muốn có bộ luật chiến tranh mà còn chống lại với chính chiến tranh bằng cách cộng tác với các tờ báo chuộng hòa bình và viết bài "Tương lai đẫm máu", lên án chế độ phong kiến và nghiên cứu khoa học nhằm mục đích chiến tranh. 10/12/1901: Dunant nhận giải thưởng hòa bình cùng với Frédéric Passy, người Pháp, theo chủ nghĩa hòa bình. 08/05/1908 : Cả thế giới làm lễ sinh nhật thứ 80 của ông. 08/10/1910: Ông mất ở tuổi 82. Nhờ tiền giải thưởng, ông để lại tờ di chúc: lập ra một cái giường vĩnh cửu cho người nghèo khó tại bệnh viện ở Heidn, nơi mà ông đã sống những năm cuối đời và những cơ quan từ thiện. Theo ý muốn của ông, tro ông được rải ở Zurich |