Trương Minh Ký có biệt hiệu là Thế Tải, ông sanh ngày 23-10-1855 tại Gia Định, là học trò của Trương Vĩnh Ký. Ông thông Hán và giỏi Pháp văn, làm thông ngôn cho nhà cầm quyền Pháp, cộng tác với Trương Vĩnh Ký trên tờ Gia Định báo, Thông Loại Khóa Trình cũng như viết sách dạy Pháp văn. Trương Minh Ký không được người ta chú ý nhưng vừa là môn đệ, vừa là người cộng tác thân cận với Trương Vĩnh Ký, xét qua văn nghiệp, cũng xứng đáng dành cho ông một chỗ đứng trong các nhà văn tiền phong chữ quốc ngữ. Ông hành văn cũng bình dân, mộc mạc như Trương Vĩnh Ký và Huynh Tịnh Của, chuyên dịch chữ Hán ra quốc ngữ và sử dụng văn vần nhiều hơn văn xuôi. Ông có được ân thưởng: - Huy chương Hàn Lâm Viện Pháp quốc (Officier d"académie) - Kim Khánh bội tinh của Nam triều và Hoàng gia Cam Bốt. Ông mất vào ngày 11-8-1900, mộ ông được chôn cất trong nghĩa trang gia đình, nơi Trương Gia Từ nằm trên đường Lý Thường Kiệt, Gò Vấp, Gia Định ( Gần Tổng Y Viện Công Hòa). Văn nghiệp của ông gồm có: - Phong thần bá áp khảo - Ấu học khải phong - Trị gia cách ngôn - Cổ văn chơn bửu - Pháp học tân lương (Cours gradué de Langue-Francaise) 1895 - Recueil de Brochures sur l"histoire de la littérature Annamite, relié 1891 Trích văn: GÀ ĐẺ TRỨNG VÀNG Tham thì thâm. Tôi muốn dẫn chứng lời nầy là thuật chuyện con gà thường bửa đẻ ra một trứng vàng, củ gà tưởng trong mình con gà có một cái kho vàng. Nó đem làm thịt đi, mổ ra coi thấy cũng giống như gà thường vậy. Ấy bởi bổn thân làm cho mình phải mất của quí trọng của mình. (Gia Định báo số 18 ngày 6-5-1882) NỮ NHI CA Ăn vóc học hay Một ngày một lớn Bớt giỡn bớt chơi Cười cười nói nói Khoe giỏi khoe khôn So hơn tính thiệt Cướp việc tranh công Ăn chùng nói vụng Làm nũng khóc la Nghịch cha nghịch mẹ Hiếp trẻ đánh em Nhem thèm sắp nhỏ Điều có nói không Đòi bồng đòi ẫm Đi tắm không kỳ Mặt lỳ mày lợm Đóng khớm, đóng hờm Đổ cơm đổ cháo Vọc gạo giỡn tiền Bông kiềng vòng chuỗi Đòi cổi đòi đeo Leo trèo nhảy múa Chưỡi rủa rầy la Gần xa nghe tiếng Làm biếng ngủ ngày Từ rày bỏ hết Có nết có na Thờ cha kính mẹ Thương trẻ mến em Dưới êm trên thuận Đi đứng dịu dàng Ra đàng tề chỉnh Cung kính khiêm nhường Kẻ thương người mến Ai đến hỏi chào Có sao nói vậy Mắt thấy tai nghe Còn e lầm lỗi Phước tội chẳng chừng Nên đừng nói bậy Kẻ vạy người ngay Mặc ai phải chẳng Ngay thẳng thiệt thà Việc nhà lần học Kẻ tóc chơn tơ Ngày giờ phải tiếc Cứ việc làm ăn Cho bằng chúng bạn Việc bán việc buôn Học khôn học khéo Thêu kiểu vá may Hàng ngày ra sức Bánh mức nem bì Món chi cũng giỏi Mới gọi gái lành Rạng danh thục nữ Quân tử hão cừu Danh lưu hậu thế Dạy để mấy lời Phen người dồi ngọc Trương Minh Ký làm (Miscelanées số 8 Decembre 1888 trang 15) CHỨC CẨM HỒI VĂN Chàng vâng hoàng chiếu thú an biên, Đưa tới Hà kiều rẻ thảm riêng, Ngậm thở ngùi than ngừng giọt lụy, Ân tình xa cách chớ hề quên. * Đi ra tin đứt có dè sao! Màn trướng đầu xuân ấm đặng nào ! Dưới bụi quỳnh diêu rêu biếc láng, San hô trong trướng bụi hồng bao. * Nỗi lìa thuở ấy bắt kinh hoàng, Đem giũ lòng đâu gặp lại chàng; Lòng ước làm trăng ngoài biển cả, Hoặc làm mây nước chói cao san. * Mây móc hàng năm thấy mặt chồng, Hàng năm trăng biển giọi soi cùng, Bay đi bay lại cho gần được, Muôn dặm thấy nhau kẻo đợi trông. * Đường sá vơi vơi cách trở thay ! Hờn chàng ngoài ải ở lâu ngày; Thuở đi đưa đó lau vàng lá, Ai ngỡ hoa mai nở bấy chầy. * Trăm hoa rộn rực sớm chào xuân, Ai đó mà xuân giục kẻ than, Đầy đất dương sà vì đó vén, Bông rời không kẻ quét đầy đàng. * Thiệt thơm xuân sớm lối ngoài vườn, Ôm lấy tần tranh tới hoa đường. Ngâm khúc Giang nam vì đó khảy, Tình sâu xin gửi thấu lòng chàng. * Bắc phương hiểm trở vượt non sông, Muôn dặm non từ dứt nẻo thông, Trấp bạc gối đầu dầm áo lụy, Chữ vàng xiêm giẻ thảy xười bông. * Ba xuân hồng nhạn tiếng qua sông, Ấy đó người lìa đứt ruột trông, Chửa đứt dây đờn lòng đã đứt, Đã xong mối thảm, khúc chưa xong. * Chàng nay nhớ thiếp nặng bằng non, Thiếp cũng nhớ chàng mỗi phút luôn, Một bổn dệt đem dâng cúng chúa, Cầu tha chồng thiếp sớm về cùng. Trương Minh Ký |