Home Gia Đình CSQG Văn Chương Cuối tầng địa ngục

Cuối tầng địa ngục PDF Print E-mail
Tác Giả: Tống phước Hiền   
Thứ Hai, 22 Tháng 8 Năm 2011 10:59

Nỗi nhọc nhằn của dân tộc sau khi được Cộng Sản "giải phóng" với tự truyện của một tù nhân chính trị, một cựu sĩ quan CSQG VNCH.

CUỐI TẦNG ĐỊA NGỤC 
                                           


Sau hôm ông Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng cho đến ngày 27.6.75 tôi giả dạng là người bản vải dạo, đi khắp các nơi từ Sài gòn đến Xuân Lộc, Long Khánh vẫn không tìm được tổ chức kháng chiến, mãi đến những ngày cuối tháng 6, có tin đồn “phe ta lập kháng chiến khu và sẽ tổ chức các cuộc tấn công vào các xe chở tù cải tạo để giải thóat tù và nhận thêm quân”. Thế là tôi quyết định cùng với nhà tôi đi trình diện tại trường trung học Nguyễn Bá Tòng.
Sáng hôm ấy, chúng tôi làm bửa tiệc chia tay không chén rượu “quan hà”, chỉ có tô canh thịt bò nấu với sả và rau răm. Tôi dặn nhà tôi soạn hành lý cho tôi thật gọn, nhẹ, nhưng cần nhất là bột ngọt, ít thuốc trụ sinh và thuốc cảm ho, bật lửa, vài cái áo cũ nhưng dày chuẩn bị cho một cuộc ra đi theo tiếng gọi “Sơn Hà nguy biến”. Tôi ôm người vợ hiền lần cuối, dể tay lên bụng, nghe sức sống đang lớn của con với nỗi thương yêu ngút ngàn.
Tôi muốn nói thật nhiều về cuộc sinh ly hôm nay, nhưng rồi chỉ nghẹn ngào với vợ, với con một lời xin lỗi vì thời cuộc, tôi phải chọn con đường dấn thân. Tôi giãi bày rằng chỉ có chiến đấu mới giành lại quyền sống, con cháu ta mới có tương lai, mới thoát khỏi kiếp nô dân lầm than, cuộc chiến đấu nào cũng phải chấp nhận hy sinh gian khổ…
Em nhìn tôi, lặng thinh, ứa lệ! Tình cảnh nầy nếu kéo dài, e rằng tôi trở lại ý định không trình diện và trốn đi nơi khác dù rằng chưa biết đi đâu. Nhưng nếu như thế thì tôi sẽ bỏ mất cơ hội được gia nhập kháng chiến quân một hoài vọng rất tha thiết và cấp bách
. Trời về chiều, tôi đứng dậy tuy dứt khóat nhưng lòng rung động vô vàn. Nhà tôi đưa tiền. Tôi biết, đây là số tiền duy nhất mà chúng tôi có, tôi hỏi :
- Em để dành cho em chưa?”.
Em nhỏ nhẹ:
- Mẹ con em không cần, em đưa hết cho anh – Nhớ giữ gìn sức khỏe, em cầu xin Trời Phật gia hộ cho anh, chúc anh luôn may mắn để về với mẹ con em. Trước khi chia tay và không hẹn được ngày về, em xin anh nhớ là dù anh mạnh khỏe hay tàn tật, dù anh sống hay chết em và con cũng mãi mãi là của anh. Em sẽ bảo vệ và dạy dỗ con.
Nhìn giòng nước mắt nhà tôi liên tiếp tuông, tôi lại vỗ về như nói với con:
- Con tên là Xuân Hiền con nhé. Xuân Hiền nhớ thay bố lo cho Mẹ !
Sự xúc động dâng tràn, em gục vào vai tôi, không còn nói được nữa; tôi nghe lòng quặn đau theo từng giòng nước mắt nóng đang dạt dào thấm trên ngực áo. Tôi cố nén xúc động, lòng rộn ràng tràn ngập tình yêu thương. Tôi không nói được cổ họng và nước mắt chực chờ nấc nghẹn và tuông chảy!
Cố lấy lại trầm tĩnh tôi nói:
- Lẽ ra anh để hết cho mẹ con em, nhưng không biết chuyện gì sẽ xảy ra nên anh xin em một nửa.
Nhà tôi cẩn thận bỏ 600 đồng vào túi quần tôi rồi khâu lại. Và chúng tôi tiến tới nhà tù mà trong lòng mong chờ biến cố thay đổi cuộc đời.
Đoàn xe chở tù chuyển bánh, chúng tôi dựa vào nhau, tìm hơi ấm nơi nhau trước khi xa cách muôn trùng. Lúc đó tôi hồi hộp, khấp khởi và tin tưởng. Tôi không rành đường Sài Gòn, chẳng biết hướng đi của đoàn xe, tâm tư tôi chỉ chờ đợi và sẳn sàng phản ứng lâm trận. Nỗi thất vọng ê chề khi xe ngừng bánh, chúng tôi bị đưa vào trại giam Suối Máu. Nhà tôi về khu giam nữ, tôi đến khu nam; ít ngày sau, bên nữ chuyển trại. Từ đó tôi hoàn toàn không biết tin tức về nhà tôi và đứa con tôi ước ao chờ đón.
Vài tháng sau, chúng tôi chuyển sang trại giam An dưỡng. Nơi đây tôi chứng kiến cảnh một số anh em tù bị đạp trúng “mìn cóc” lúc đi cắt cỏ tranh, và một lần bị chất nổ không biết do ai và tại sao, đã gây tử vong cho một số tù và trong dó có nhạc sĩ tài danh Minh Kỳ ( Đại Úy CSQG Nguyễn Phúc Vĩnh Mỹ) Những nạn nhân bị cưa chân, cưa tay bằng loại cưa gổ, hoặc cắt bằng dao nhà bếp. Các cuộc giải phẫu ấy diễn ra ngoài trời, hoặc trong nhà ở, thực hiện trong cái mùng gọi là “cách ly”. Vật dụng y tế không được sát trùng, không có thuốc men dù là thuốc đỏ. Tiếng la thét đau đớn hãi hùng của nạn nhân làm rung động lòng người (trừ người cộng sản - CS).
Sau đó tôi lần luợt bị chuyển đến các trại giam: Suối Máu, Z.30.Đ Hàm Tân Tỉnh Thuận Hải, A.20 Tỉnh Phú Khánh. Tôi là chứng nhân và cũng là nạn nhân trong lao tù CS, từng chứng kiến cái gọi là phiên tòa xử án Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Trụ, chúng tuyên án tử hình anh với tội danh: Thiên Chúa Giáo, di cư, Sĩ Quan chế độ củ, thành viên trong gia đình đều là viên chức của VNCH, không cộng tác với chúng. Tôi cũng từng chứng kiến những trận đòn của anh em tù cảnh cáo những tên antenna, trật tự. Những cuộc phản kháng của tù như cuộc hát nhạc chính huấn vào tết năm 1978 tại Z.30.Đ, như không chịu hát nhạc của chúng và rồi bị tên trật tự Quý đen đánh, như không nhận phần ăn sáng và lãng công để “phản đối cán bộ cai tù đánh tù” tại trại giam A.20. Tôi chứng kiến cảnh tù nhân bị ép buộc phải uống thuốc trước mặt chúng, tù chỉ được giải thích là thuốc ngừa bịnh !?, ai không uống thì bị nhốt kỹ luật.Tôi cũng từng bị biệt giam nhiều lần, lần thứ nhất là lần tôi nhớ mãi vì trùng vào thời gian mẹ tôi qua đời. Nhưng mãi đến gần năm sau tôi mới được tin nhờ chuyến thăm nuôi lần đầu tiên mà cũng là cuối cùng của vợ tôi.
Nhận hung tin ấy tôi chới với bàng hoàng. Từ khu thăm nuôi về lại nhà giam tôi như người mất hồn và những giọt nước mắt cứ rấm rức, lặng lẻ chảy hoài. Thế là hết, thế là tai họa khốc liệt nhất đã đến với tôi, thế là tôi vĩnh viễn không còn thấy Mẹ! tôi nghẹn ngào xúc động.
Khi Mẹ chết, chân tôi còm cùm xích.
Vợ con tôi còn lây lất lao tù.
Cả Quê Hương nhuốm một màu tang trắng,
Và Giang sơn chìm đắm giữa sương mù
(Trích “Nước mắt người Nữ Chiến Hữu -TPH)
Tôi cũng chứng kiến từ những anh em tù vì yếu đuối, ươn hèn đã bị bọn cai tù khuất phục; những anh em uất ức phải quyên sinh; những anh em dũng cảm trốn trại và bị bắt lại, bị chúng đánh đập rất tàn nhẫn kinh khiếp, và những anh em bất khuất công khai phản kháng bị triền miên biệt giam khắc nghiệt. Tôi đã cùng anh em đồng đội, đồng cảnh bị quằn quại dưới hệ lụy các sách lược như: Bao tử trị - Lao động khổ sai, - thăm nuôi – Được ngủ lại đêm với vợ (dĩ nhiên phải cộng tác với chúng) - Sự trà trộn giữa tù hình sự và tù chính trị dùng bọn nầy áp đảo, hạ thấp phẫm cách tù chính trị - Phân biệt kỳ thị giữa các tù nhân với nhau qua tiêu chuẩn khẩu phần dựa trên tỷ lệ đầu hàng yếu hèn thể hiện qua lao động hay qua báo cáo, điềm chỉ mà chúng gọi là cải tạo tiến bộ. Những sách lược nầy nhằm mục đích đánh cuớp nhân phẫm, hèn hóa, đưa con người đến cuối tầng của đau đớn, thấp hèn hơn cả súc vật.
Cùng lúc ấy, chính sách CS ngoài xã hội là: Thực hiện việc phân hóa gia đình tù chính trị như cổ xúy việc vợ bỏ chồng con, tạo một loại ý thức đạo đức xã hội cộng sản. CS vẽ ra hình ảnh người tù chính trị như là một giống người tồi tàn, đáng khinh miệt và cán binh, cán bộ CS là những anh hùng có phẫm chất đáng ngưỡng mộ; nên việc lấy cán bộ hoặc thương binh CS là “nghĩa vụ cao cả”, là “đền ơn đáp nghĩa”. Để hổ trợ cho chính sách lưu manh nầy cộng sản tìm đủ mọi cách gây khó khăn trong đời sống vợ con và thân nhân tù cải tạo như hạn chế đi lại, tem phiếu khẩu phần lương thực; cuộc mưu sinh thường nhật luôn bị rình rập theo dõi, ngăn chận sự học hành của con em. Và cũng như trong tù - một số phụ nữ vì yếu đuối, vì sự sống còn đành phải ngậm ngùi thúc thủ.
*
Thật bất ngờ, sáng ngày 1.5.1982 tôi cùng với hai anh em được thả về. Bất ngờ vì không có bất cứ dấu hiệu nào báo trước, bất ngờ vì khoảng một năm trước, chúng thả một loạt khá đông tù chính trị cũng như tù tàu “Việt Nam Thương Tín”(VNTT).
Tù Sĩ Quan cải tạo còn lại khoảng 1/3, và chúng xa gần cho biết là :“không có ngày về, hay chí ít cũng 20 cuốn lịch nữa”.
Chú vợ tôi nguyên là viên chức hành chánh, về trước tôi theo đợt tha dành cho tù VNTT dẫn tôi về quê vợ, cũng là nơi tôi bị chỉ định cư trú
Phút bàng hoàng hội ngộ ấy không bao giờ tôi quên được. Nhà tôi điếng lặng, còn tôi nhìn sự tàn tạ của của người bạn đường lòng vô cùng xót đau. Buổi trùng phùng sau gần 7 năm biền biệt không có những uớc mơ rộn ràng của tuổi thanh xuân, chỉ còn có lòng thương cảm, sự kính trọng và một ý chí quyết liệt.Cộng sản là kẻ trả thù hèn hạ nhất. Chúng bắt tôi mỗi năm phải chịu 26 ngày công lao động thủy lợi, bất cứ lúc nào chúng cũng trưng công để sửa cầu, đắp đường hay làm bất cứ việc gì chúng muốn. Mỗi lần lao nô như thế, chúng không cung cấp bất cứ thứ gì từ thực phẫm đến thuốc men. Kẻ lao nô phải tự giải quyết nếu đau yếu, thương tật, và vẫn phải thiếu nợ ngày công nô dịch.. Hằng tuần tôi phải đến trình diện tại công an xã, Hơn 6 năm sau tôi mới được chúng cho xả chế. Cuộc sống chúng tôi khốn đốn lắm vì tôi bị theo dõi, ít người dám thuê mướn. Ban ngày tôi đi làm mướn, tôi không nệ hà sức lực hay tiền công. Tôi chỉ cần cơm ăn hầu không là gánh nặng cho vợ con, chiều về có thêm ít tiền hay lưng thúng khoai cho gia đình, tối thì quá giang ra bến đò thị xã Sa Đéc làm phu khuân vác cho các ghe hàng. Tôi chèo xuồng bán hàng dạo trên sông, nhận vác mía cho các ghe chành. Công sức được nhìn thấy qua bữa cơm gia đình. Đứa con gái lớn, khi tôi đi tù còn trong bụng mẹ; đã cùng chịu cảnh tù đày chung với mẹ từ khi chừng tháng tuổi; nay đã học lớp ba, màu da và ánh mắt đã có đôi nét tươi vui. Chúng tôi mong ước có đứa con trai để nối tiếp những gì đang dang dở và cháu gái Xuân Hà chào đời. May nắm thay, tuy là gái Xuân Hà thể hiện được những gì tôi kỳ vọng dù còn hạn chế.
Sau chuỗi ngày quá lao nhọc, và do di hại trong thời gian tù đày dưới bàn tay độc ác của cai tù cộng sản tôi lâm trọng bịnh.
Bác sĩ cho hay tôi bị lao phổi, màng phổi bên phải bị dày dính và phổi bị teo, kéo lêch tim nên trái tim bị thòng. Thận có dấu hiệu bị sạn, gan bị chai. Sán lãi quá nhiều tràn xuống cả hậu môn
Nhà tôi vét hết đồng tiền cuối cùng, nhưng tử thần vẫn chờ chực kéo tôi đi. Tôi thấp thõm chờ chết. Giữa lúc mạt vận như thế thì chị tôi xuất hiện! Chị là cả và tôi là út. Chiến tranh làm thất lạc nhau. Buổi trùng phùng thiêng liêng ấy thấp thoáng bóng tử thần.
Chị quyết định mang tôi về Long xuyên và chạy chữa. Tôi thóat nạn và từ đó tôi có được nguời Mẹ thứ hai để nuơng tựa! cũng thời gian bi thãm ấy thì một tên cũng Sĩ Quan chế độ VNCH lập công với bọn cán bộ xã, hắn ghi tên tôi vào danh sách “mạnh thường quân “ thể thao và bắt buộc tôi phải “tự nguyện” đóng góp 100 đồng ũng hộ (thời bấy giờ mới đổi tiên lần thứ hai nên mệnh gía đồng tiên cao lắm) và chúng tôi thi thật quá nghèo, nghèo quá !- Ôi tình đời, tình người sao mỉa mai và độc ác!
Thoát đuợc bạo bịnh, tôi phải tiếp tục dồn hết mọi nổ lực và khả năng chèo lái chiếc thuyền nan mỏng manh gia đình trước cơn ba đào chòng chành sóng dữ. Tôi bán bánh kẹo và dụng cụ học sinh trước trường Trung học xã. Nhờ học sinh dành cho sự yêu kính vì tôi thường dẫn giãi thêm cho các em về các môn học mà các em chưa thông rõ.
Theo lời yêu cầu của các em, và cả phụ huynh; tôi mở thêm lớp Anh Văn vỡ lòng tại căn “lều” chúng tôi đang ở. Học sinh khá đông. Không bàn ghế, các em ngồi trên nền nên nhà, giường ngủ, tràn ra cả ngoài sân…, học phí có thể là khoai, lúa, gạo, tiền… nhưng tất cả do tùy hỷ và dĩ nhiên vật chất không là điều kiện để hình thành lớp học. Thấy số lượng học sinh quá đông, cô Hiệu phó cũng mở lớp dạy kèm Anh ngữ, nhưng số học sinh quá ìt ỏi dù đã được nhà trường cổ vũ. Thế là tôi bị công an huyện khép vào tội dạy “Anh Văn ngụy!”. Tôi đành từ giả học sinh của tôi với niềm lưu luyến không cùng. Tôi quay sang hành nghề thú y, nhờ việc chữa trị kết quả khả quan.
Vận may lại đến, sạp hàng vải của vợ tôi phát triển nhanh, chúng tôi trở thành nơi cung cấp hàng may sẳn cho một số sạp bán quần áo ở các chợ.
Nhưng chưa được bao lâu thì sạp vải của vợ tôi bị trưng vào hợp tác xã buôn bán. Cuộc sống đang dần dà khởi sắc thì xã ủy cộng sản yêu cầu tôi cộng tác với chúng qua các chức vụ như: Kế toán tập đoàn, kế toán hơp tác xã mua bán, Kế toán cở sở sản xuất gạch. Giáo viên dạy Anh ngữ. Tôi dứt khóat từ chối vì thâm tâm tôi đã quyết định bất hợp tác với CS.
Để giãm bớt áp lực, tôi nhận làm thủ kho cho nhà máy sản xuất đường của Hội Chữ Thập Đỏ Trung Ương Cơ sở Phía Nam đặt tại địa phương tôi sinh sống. Sau lần kiễm tra khả năng, tôi được lịnh thuyên chuyển về Sài Gòn và bổ sung vào đoàn Kế Toán Trung Ương và chờ phân phối. Tôi tìm lý do thoái thác và xin nghỉ việc
Đường đến tương lai thêm dấu hiệu khập khễnh, tiệm bán Tây dược của tôi được lịnh miệng phải dẹp vì chỉ ”Cán bộ chính quyền mới được kinh doanh hạng mục” nầy. Sinh họat gia đình luôn bị dòm ngó, theo dõi. Cháu Xuân Hiền không được dự thi học sinh giõi cấp Tỉnh vì lý lịch gia đình, mỉa mai hơn hết là cháu bị bắt phải ở lại lớp về môn Hóa dù rằng cháu học sinh xuất sắc, đứng đầu lớp về môn học nầy. Cháu bị trả thù vì cháu học thêm ngoài giờ với thầy giáo gốc Miền Nam được lưu dụng mà không học thầy giáo từ Miền Bắc vào đang là trưởng khoa Hóa. Tôi quyết liệt phản đối. Sau các cuộc tranh cải gay go, nhà trường đồng ý chấm lại tất cả bài thi của cháu, kết quả cháu vẫn dẫn đầu lớp và phải đuợc lên lớp 12 bậc cuối của Trung Học Phổ Thông.
Trong lúc chán nản thì chúng tôi có giấy gọi phỏng vấn và chúng tôi được Chính Phủ Hoa Kỳ chấp thuận định cư theo chương trình cựu tù nhân chính trị được tỵ nạn tại Hoa Kỳ với số thự tự H.17.
Trước khi lên phi cơ rời Việt Nam, mắt tôi rưng lệ. Chúng tôi phải rời xa đất mẹ thật sao!
Việt Nam - Nơi chúng tôi được sinh ra, được khôn lớn được dưỡng dục và là nơi chúng tôi không tiếc máu xương để bão vệ.
Việt Nam - Thật vô cùng cao qúy và thiêng liêng.
Hôm nay bạo quyền cộng sản đang thống trị. - đành ôm hận ra đi. Chúng tôi tự hẹn sẽ có ngày hội trùng phùng. Chúng tôi phải có bổn phận góp phần cho gian quyền cộng sản sụp đổ, cho Tổ Quốc sang trang.
Nhớ lại những ngày qua, tôi vẫn còn kinh hải, bùi ngùi thương cảm số phận hơn 80 triệu người dân còn trầm luân trong ách thống trị của bọn tham ô lưu manh gian đảng cộng sản. Xót xa Tổ Quốc Việt Nam bị chúng làm hàng hóa trao đỗi để chúng được ngất ngưỡng, hống hách tham tàn.
Tôi nghĩ rằng: Góp phần xoa dịu, chia xẻ nỗi đau thuơng với các đồng đội ngày xưa, với đồng bào đang lầm than; đóng góp những công dân tốt cho xã hội, gìn giữ Văn Hóa và ngôn ngữ Việt, trao truyền cho những thế hệ kế tiếp về nhân cách về niềm hãnh diện đáng tư hào của giống nòi, về trách nhiệm đối với Quê hương là cách đền ơn thiết thực nhất đối với Tiền Nhân, đối với sự hy sinh anh dũng của hàng triệu Quân, Dân, Cán, Chính VNCH cũng như 58 ngàn chiến sĩ Hoa Kỳ cho nền Tư Do và công lý của Nhân Dân Việt Nam.
Hôm nay đây, giữa không khí Tự Do, đường đi tới tương lai rộng mở, chúng tôi là nguyên là Sĩ Quan thuộc Lực lượng CSQG/VNCH là cựu tù nhân chính trị của cộng sản kính gởi lòng tri ân về sự hào hiệp của Chính Phủ và Nhân Dân Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Đồng kính gởi lòng biết ơn của chúng tôi đến những đồng đội, đồng bào của chúng tôi đã nghe tiếng oan khốc ngút ngàn phẫn hận của chúng tôi mà lao vào gian khó nhọc nhằn để cứu vớt chúng tôi. Nhờ những hoạt động của quý vi mà chúng tôi mới có ngày hôm nay.
Qua quý vị những chữ “ĐỒNG BÀO và ĐỒNG ĐỘI” hết sức thấm thía và thiêng liêng./-


Little Sài Gòn, ngày Truyền Thống CSQG/VNCH 1.6.2008
TỐNG PHƯỚC HIẾN
(Nguyên Thiếu Úy CSQG/VNCH}