Home Lịch Sử VN Khảo Cứu Dinh Độc Lập

Dinh Độc Lập PDF Print E-mail
Tác Giả: Trúc Giang MN   
Thứ Năm, 13 Tháng 10 Năm 2011 06:38

Lúc 11 giờ 30 ngày 30-4-1975, xe tăng CSBV đã húc sập cánh cửa của dinh, đánh dấu sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hoà.

 

 

1* Tổng quát

Dinh Độc Lập là "chứng nhân" đã chứng kiến những biến cố lịch sử của Việt Nam Cộng Hoà, từ những cuộc đảo chánh, cách mạng của chính trị miền Nam. Còn gọi là Dinh Tổng Thống hay Phủ Đầu Rồng.

Dinh Độc Lập (DĐL) là nơi cư ngụ và làm việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. DĐL có hai kiến trúc, kiến trúc cũ được xây dựng ngày 23-2-1868, có tên là Dinh Norodom, sau đổi thành Dinh Độc Lập.

Kiến trúc mới do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế và thực hiện xây dựng dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Cánh cửa của DĐL bị xe tăng của Cộng Sản Bắc Việt húc sập vào buổi sáng ngày 30-4-1975 đánh dấu ngày nước Việt Nam Cộng Hoà lọt vào tay Cộng Sản Bắc Việt. Từ đó, DĐL được đổi tên thành Dinh Thống Nhất.

2* Vài nét lịch sử của Dinh Độc Lập

2.1. Thời Pháp thuộc

Ngày 23-2-1868, Thống đốc Nam Kỳ Lagrandière làm lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Dinh Thống Đốc Nam Kỳ. Viên đá lịch sử lấy từ núi Châu Thới Biên Hòa, hình vuông, mỗi gốc rộng 50cm, có lổ, bên trong chứa những đồng tiền bằng vàng, bạc, đồng có in hình Napoléon Đệ Tam.

Diện tích công trình rộng 12 mẫu tây. Mặt tiền rộng 80m. Bên trong có phòng khách chứa đến 800 người. Do nước Pháp có chiến tranh, công trình kéo dài đến năm 1863 mới xong. (1868-1863=5 năm)

Dinh được đặt tên là Dinh Norodom và đại lộ trước dinh cũng mang tên Norodom, là tên của dòng họ cai trị vương quốc Campuchia. Dinh Norodom là nơi ở và làm việc của Thống đốc Nam Kỳ, người Pháp.

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh Pháp, dinh Norodom là nơi làm việc của chính quyền Nhật Bản ở VN.

2.2. Thời Việt Nam Cộng Hoà

Ngày 7-9-1954, Dinh Norodom được Đại tướng Paul Ely bàn giao lại cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm.

Năm 1955, Tổng thống Ngô Đình Diệm đổi tên thành Dinh Độc Lập. Từ đó, DĐL là nơi ở và làm việc của Tổng thống Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hoà.

Phủ Đầu Rồng

Báo chí gọi DĐL là Phủ Đầu Rồng, vì Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lấy quốc huy là hai con rồng trong bức hình lưỡng long tranh châu. Các nhà tướng số, phong thủy lại tán ra rằng, DĐL là cái đầu của con rồng, mà cái đuôi của nó dài ra tới Công trường Chiến sĩ ở ngã tư Duy Tân- Trần Quý Cáp. Họ cho rằng, muốn được yên vị ở cái đầu con rồng là DĐL, thì phải trấn ếm cái đuôi của nó, để cho nó không còn khả năng vùng vẫy quậy phá gây bất ổn.

Sau đó, tượng đài chiến sĩ vô danh của Pháp để lại bị đập phá và xây lại một cái tháp cao, đặt giữa cái hồ nước tròn, có một con rùa bằng đồng nằm dưới chân tháp, cho nên gọi là Hồ con rùa.

Ngày 27-2-1962, hai phi công VNCH là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc lái hai chiếc phi cơ A-1 Skyraider ném bom làm sập bộ phận chính bên trái của dinh. Do không có thể hồi phục lại được, nên Tổng Thống Diệm cho đập phá toàn bộ để xây lại dinh thự mới trên nền đất cũ, theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ.

2.3. Dinh Độc Lập mới

Ngày 1-7-1962, Dinh Độc Lập mới được khởi công xây dựng. Thời gian nầy, Tổng thống Ngô Đình Diệm chuyển sang cư ngụ và làm việc ở Dinh Gia Long.

Công trình xây dựng đang tiến hành thì Tổng thống Diệm bị đảo chánh và bị giết vào ngày

2-11-1963. Như vậy, Tổng thống Diệm chưa được vào ở và làm việc ở DĐL do ông cho xây cất.

Ngày 31-10-1966, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, chủ tọa lễ khánh thành DĐL. Tổng thống Thiệu ở và làm việc tại đó từ tháng 10 năm 1967 cho đến ngày 21-4-1975.

Ngày 8-4-1975, Trung úy phi công Nguyễn Thành Trung lái phi cơ F-5E ném bom DĐL, thiệt hại không đáng kể.

Tổng thống Trần Văn Hương cũng vào làm việc tại văn phòng Tổng thống trong dinh, trước khi trao quyền lại cho Tổng thống Dương Văn Minh.

2.4. Dinh Độc Lập lọt vào tay Cộng Sản Bắc Việt

Ngày 30-4-1975, xe tăng CSBV húc sập cánh cửa DĐL đánh dấu sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Công Hoà.

3* Kiến trúc của Dinh Độc Lập

Dinh Độc Lập là một công trình kiến trúc độc đáo của kiến trúc sư (KTS) Ngô Viết Thụ. Được khởi công ngày 1-7-1962 và khánh thành ngày 31-10-1966. KTS Ngô Viết Thụ muốn cho công trình của mình mang một ý nghĩa văn hoá. Từ nội thất cho đến mặt tiền đều tượng trưng cho một triết lý cổ truyền, nghi lễ Đông phương và cá tính dân tộc.

Công trình thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật hiện đại với kiến trúc Đông phương. Toàn thể mặt tiền của dinh mang hình chữ “Cát” trong chữ Hán, có nghĩa là tốt lành, may mắn. Ngoài ra, từng phần của dinh có mang những chữ: Khẩu, Trung, Tâm và Hưng. Những đốt của cây trúc bằng gạch đá, tạo thành một bức rèm thanh tao bao quanh lầu hai.

Bên trong, những đường nét kiến trúc đều dùng những đường ngay, kéo thẳng, mang ý nghĩa ngay thẳng, quang minh chính đại.Trước sân dinh, thảm cỏ hình bầu dục, đường kính dài 102m. Màu xanh rì của thảm cỏ tạo cảm giác êm dịu, sảng khoái. Báo chí thời đó cho biết, cỏ phải mua từ Nhật mang về.

Một hồ nước hình bán nguyệt, có thả hoa sen, hoa súng gợi lên hình ảnh những hồ nước yên ả ở các ngôi đình, chùa cổ kính Việt Nam ngày xưa.

Dinh có diện tích 120,000 mét vuông, có 4 khu nhà.

Khu nhà chính hình chữ “T”, diện tích mặt bằng 4,500 mét vuông, cao 26m. Đây là nơi ở và làm việc của tổng thống. Khu nầy có 3 tầng, tầng hầm, tầng nền và lầu hai. Có 2 gác lửng và một sân thượng làm bãi trực thăng.

Khu nhà chính có 95 phòng, mỗi phòng có công dụng riêng. Kiến trúc và trang trí mỗi phòng phù hợp với mục đích xử dụng.

Phòng họp nội các, phòng đại yến, phòng khách nước ngoài, phòng tiếp khách trong nước, phòng trình quốc thư, phòng làm việc của tổng thống, phòng tiếp khách của phó tổng thống. Một khu quân sự gồm có đài phát thanh, phòng trực chiến của tổng thống, phòng bản đồ…phòng giải trí. Có một hầm ngầm để điều khiển hành quân.

Kinh phí xây dựng khá tốn kém, tương đương 15,000 cây vàng.

Trang thiết bị trong dinh hiện đại nhất thời đó. Lễ lạc quy tụ cả ngàn người. Hệ thống điều hòa không khí, thang máy, thông tin liên lạc nội bộ, nhà bếp, kho bãi như một khách sạn 5 sao thứ lớn.

Đặc biệt, một tổng hành dinh ngầm dưới mặt đất là một khối hầm bằng bê tông dầy bọc thép, chịu đựng được bom thứ lớn và pháo kích, đáp ứng phòng thủ tối tân nhất.

Có 4,000 ngọn đèn các loại, hàng chục tác phẩm nghệ thuật quý giá. Thảm, rèm, bàn ghế, vật dụng đều hạng nhất.

Dinh Độc Lập là một vật chứng tiêu biểu, gắn liền với vận mệnh dân tộc, đồng thời cũng là một kiệt tác nghệ thuật kiến trúc kết hợp hài hòa văn hoá Đông Tây.

3.1. Vài nét về kiến trúc sư Ngô Viết Thụ

Ngô Viết Thụ sinh ngày 17-9-1926 tại Thừa Thiên-Huế. Thời gian 1950-1955, là sinh viên ngành kiến trúc tại trường Mỹ Thuật Quốc Gia Paris.(Pháp)

Năm 1955, ông nhận giải nhất , Giải Thưởng Lớn Roma, thường được gọi là Khôi Nguyên La Mã.

Giải La Mã (Prix de Roma) là giải học bổng cho những sinh viên ngành nghệ thuật. Giải nầy được thành lập thời vua Louis XIV. Đây là giải hàng năm cho nghệ sĩ (gồm hội họa, điêu khắc và kiến trúc) tài năng, thông qua một cuộc thi sát hạch. Người trúng giải được vào ở Cung điện Nancini do chi phí của nhà vua Pháp tài trợ. Người đoạt giải sẽ được gởi đến Viện Hàn Lâm Pháp ở Roma (Académie de France à Rome)

Năm 1960, KTS Ngô Viết Thụ về VN làm việc theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Năm 1962, ông là người Á châu đầu tiên trở thành Viện Sĩ Danh Dự của Viện Kiến Trúc Hoa Kỳ.

Ông đã thiết kế nhiều công trình xây dựng mang sắc thái đặc biệt về kỹ thuật và mỹ thuật. Dinh Độc Lập, Viện Đại học Huế, Làng Đại học Thủ Đức, Viện Nguyên Tử Đà Lạt, Thương xá Tam Đa, tòa đại sứ VNCH ở Anh…Rất tiếc, một số công trình quan trọng bị thay đổi thiết kế vì lý do kinh phí và nhiều lý do khác, đã làm cho phong cách thiết kế của ông bị mất đi nhiều phần.

Ông qua đời ngày 9-3-2000 tại Sài Gòn. Một trong 8 người con của ông là Tiến sĩ Ngô Viết Nam Sơn cũng là KTS và Đô thị gia, tốt nghiệp ở Hoa Kỳ, làm tư vấn thiết kế và giảng dạy tại Bắc Mỹ.

4* Cuộc tấn công Dinh Độc Lập năm 1960

Dinh Độc Lập là nơi xảy ra những cuộc binh biến, đảo chánh, cách mạng, cho nên đã từng bị ném bom, bắn phá.

Cuộc đảo chánh năm 1960 là cuộc đảo chánh đầu tiên của nước Việt Nam Cộng Hoà, xảy ra tại Dinh Độc Lập cũ, có tên là Dinh Norodom thời Pháp thuộc.

Lúc 5 giờ sáng ngày 11-11-1960, lực lượng đảo chánh gồm có các đơn vị Nhảy Dù bao vây Dinh Độc Lập, sau khi khống chế và uy hiếp các cơ quan quân sự trọng yếu như căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất, đài phát thanh Sài Gòn, Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, doanh trại của Đội Phòng Vệ phủ Tổng Thống. Đồng thời họ đặt hầu hết những tướng lãnh trong tình trạng quản thúc tại gia.

Nhiều loạt súng máy bắn vào dinh làm bể cửa kiếng. Tổng thống Diệm suýt chết vì loạt súng máy bắn qua cửa sổ, vào phòng ngủ, đạn ghim vào giường, nhưng thật may mắn, ông đã rời giường ngủ vài phút trước đó.

Đội Phòng Vệ Phủ Tổng thống có từ 30 đến 60 người, kháng cự mãnh liệt, đã bắn hạ 7 người vượt rào băng qua sân cỏ. Quân đảo chánh ngừng bắn và siết chặt vòng vây.

Lúc 7 giờ 30 sáng, quân tăng cường đã tới, lực lượng đảo chánh mở cuộc tấn công nữa, nhưng đội Phòng Vệ bắn trả quyết liệt.

Lúc 8 giờ, 5 chiếc thiết giáp đi vòng ra phía sau dinh, bắn vào những trạm gác và pháo kích vào sân dinh.

Đến 10 giờ 30 thì tiếng súng ngừng hẳn. Tổng thống Diệm và ông bà Nhu đã xuống hầm.

Thiếu tướng Nguyễn Khánh, Tham Mưu Trưởng, nghe tiếng súng nổ, ông tìm cách ra khỏi nhà, đến DĐL bằng xe hơi dân sự, vượt qua rào ở ngỏ sau, vào gặp Tổng thống Diệm. Quân đảo chánh canh gác trước nhà, không biết ông đã bí mật ra đi.

Ở dưới hầm, Tướng Khánh điều động quân đội về giải vây DĐL.

Đến trưa, nhiều nhóm dân chúng tụ tập bên ngoài DĐL, reo hò cổ võ quân đảo chánh và vẩy những biểu ngữ yêu cầu thay đổi chế độ.

Đài phát thanh Sài Gòn công bố là Hội Đồng Cách Mạng đã đảm trách vai trò chính phủ của miền Nam.

Quân đảo chánh do dự về bước kế tiếp, vì có sự tranh luận bất đồng ý kiến về vai trò tương lai của Tổng thống Diệm.

Vương Văn Đông chủ trương thừa thắng xông lên tiến vào bắt sống Ngô Đình Diệm. Nguyễn Chánh Thi thì trái lại, ông sợ Tổng thống Diệm có thể bị thiệt mạng trong cuộc tấn công. Mặc dù ông Diệm có khuyết điểm, nhưng miền Nam không có lãnh tụ nào vượt trội hơn ông cả.

Quân đảo chánh chỉ muốn ông bà Nhu phải rời khỏi chính quyền, nhưng lại không đồng ý với nhau là nên giết họ hay trục xuất ra nước ngoài.

Để đối phó, ông Diệm dung kế hoãn binh, câu giờ bằng cách đề nghị phe đảo chánh đàm phán để thành lập chánh phủ mới.

Quân đảo chánh muốn cử Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm, chỉ huy trưởng trường Võ Bị làm thủ tướng, vì tướng Nghiêm không phải là người của đảng Cần Lao.

Đài phát thanh Sài Gòn cho phát đi lời tuyên bố của Đại tá Nguyễn Chánh Thi, cho rằng Ông Diệm đã bị truất phế vì độc tài.

Tổng thống Diệm lo ngại toàn dân sẽ nổi dậy, bèn cử bí thư là ông Võ Văn Hải sang thương thuyết với quân đảo chánh.

Đến xế chiều ngày 11-11-1960, Tướng Nguyễn Khánh rời DĐL đến gặp cấp chỉ huy đảo chánh để bàn về những yêu sách của họ.

Trung tá Vương Văn Đông, Thiếu tá Nguyễn Huy Lợi muốn rằng, những sĩ quan và những chính khách đối lập phải được bổ nhiệm vào nội các chính phủ. Đồng thời, yêu cầu Đại tướng Lê Văn Tỵ phải được bổ nhiệm vào chức Bộ trưởng Quốc phòng.

Tổng thống Diệm điện hỏi Tướng Tỵ, đang bị quản thúc tại gia, ông Tỵ không chấp nhận chức Bộ trưởng QP.

Bác sĩ Phan Quang Đán, phát ngôn nhân của đảo chánh, người chống ông Diệm quyết liệt, vì ông Diệm đã xoá tên ông ra khỏi danh sách đắc cử dân biểu QH và chận đường, không cho ông đến nhậm chức trong ngày lễ khai mạc. Bác sĩ Đán lên tiếng trên đài phát thanh và tổ chức họp báo, trong khi quân đảo chánh hạ những tấm hình của TT Diệm treo trên tường xuống và giẫm chân, chà đạp lên nó.

Tướng Khánh trở lại DĐL, tường trình những yêu cầu của quân đảo chánh và đề nghị TT Diệm nên chia xẻ quyền hành. Bà Ngô Đình Nhu lớn tiếng phản đối việc đó, khiến cho Tướng Khánh  đe dọa rút lui, và ông Diệm buộc bà Nhu phải im tiếng.

Trong khi hai bên ngưng chiến để thương lượng thì các đơn vị trung thành với Tổng thống Diệm có đủ thì giờ điều động quân về tiếp cứu.

Đại tá Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lịnh SĐ 5 BB, mang pháo binh từ Biên Hoà về Sài Gòn.

Ngày 12-11-1960

Đại tá Huỳnh Văn Cao, TL/SĐ 7 BB ở Mỷtho, Đại tá Trần Thiện Khiêm, TL/SĐ 21 mang 7 tiểu đoàn BB cùng với pháo binh của Trung tá Bùi Dzinh vể giải vây DĐL.

Tướng Khánh cũng thuyết phục tướng Lê Nguyên Khang, TL/TQLC gởi tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 2 TQLC. Biệt Động Quân ở Tây Ninh cũng về chống đảo chánh.

Tổng thống Diệm yêu cầu Tướng Khành tiếp tục thương lượng và tiếp tục ngưng bắn.

Sáng ngày 12-11-1960, đài phát thanh Sài Gòn phát đi bản tuyên bố của TT Diệm, hứa hẹn sẽ có bầu cử tự do, công bằng và các biện pháp tự do khác, như chấm dứt kiểm soát báo chí…sẽ hợp tác với Hội Đồng Cách Mạng để thành lập chánh phủ liên hiệp.

Cuộc tấn công trì hoãn 36 tiếng đồng hồ.

Tại Phú Lâm ngày 12-11-1960

Phú Lâm là cửa ngỏ vào thủ đô từ miền Tây, cuộc giao tranh chớp nhoáng xảy ra nhưng rất khốc liệt với khoản 400 người chết, phần đông là dân chúng tò mò ra đường xem đánh nhau. Quân đảo chánh bị đánh tan ở Phú Lâm và lực lượng cứu viện tiến về DĐL.

Một số đơn vị đã vượt qua khỏi vòng vây của quân đảo chánh, bằng cách nói dối rằng họ là quân chống TT Diệm. Các đơn vị đó bố trí chung quanh dinh xong, thì quay súng lại tấn công bất ngờ quân đảo chánh. Hai bên “trao đổi hoả lực” cho nhau khoảng vài tiếng đồng hồ, quân đảo chánh yếu thế, rút lui. Cuộc đảo chánh bị dẹp tan.

Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tr/t Vương Văn Đông, Phạm Văn Liễu cùng một số sĩ quan chạy vào phi trường Tân Sơn Nhất nhờ Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ giúp đở.

Ông Thi nói “Kỳ, chúng tôi đã thất bại, chúng tôi muốn thoát khỏi nơi nầy, bằng không, sẽ bị xử tử.”

Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ cho một chiếc C-47, thế là 15 người lên phi cơ do phi công Phan Phụng Tiên lái. Phe đảo chánh bắt Tư Lịnh Biệt Khu Thủ Đô là Trung tướng Thái Quang Hoàng đi theo làm con tin.

DĐL cử 2 chiếc khu trục cơ đuổi theo chiếc C-47. Đến gần biên giới Campuchia thì bắt kịp. Hai phi công gọi về xin chỉ thị. Lúc đó Tướng Khánh nghe bà Nhu đứng bên cạnh lớn tiếng “Bắn rơi nó đi! Giết hết lũ Nhảy dù phản nghịch”. Nguyễn Khánh không đồng ý với bà Nhu, ra lịnh cho 2 khu trục cơ trở về.

Đại úy Phan Lạc Tuyên cũng chạy đến Campuchia bằng đường bộ.

Thái tử Norodom Sihanouk mừng rỡ đón chào tất cả, bởi vì Campuchia và VNCH thù nghịch nhau. Vì Sihanouk làm ngơ để cho CSBV xử dụng lãnh thổ tấn công VNCH. Hơn nữa, VNCH đã có ít nhất là 2 lần ám sát Sihanouk. Lần thứ nhất, Ngô Đình Nhu gởi bom thư, lần thứ hai, Bộ trưởng Ngô Trọng Hiếu mua chuộc viên tướng Campuchia làm đảo chánh lật đổ Sihanouk.

4.1. Tổ chức đảo chánh năm 1960

Kế hoạch do Trung tá Vương Văn Đông chủ trương và tổ chức, với sự tham gia của Trung tá Nguyễn Triệu Hồng (Anh vợ của Tr/t Đông), Thiếu tá Nguyễn Huy Lợi, Th/t Phạm Văn Liễu, Th/t Nguyễn Kiến Hùng, Đại úy Phan Lạc Tuyên, Đ/u Nguyễn Tiến Lộc, Đ/u Nguyễn Thành Chuẩn và những sĩ quan chỉ huy các đơn vị tham gia đảo chánh. Đại tá Nguyễn Chánh Thi được mởi tham gia sau cùng.

Kế hoạch chuẩn bị một năm. Tr/t Đông đã móc nối được một trung đoàn Thiết giáp, một đơn vị Hải quân, 3 tiểu đoàn Dù, một số đơn vị TQLC và Pháo binh.

Phía chính trị gồm có: Bác sĩ Phan Quang Đán, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Trương Bảo Sơn, Phan Bá Cầm (Nhân sĩ Hoà Hảo), Phan Đình Nghị và Nguyễn Đình Lý…

4.2. Lý do thất bại

Theo lời tường thuật của nhà báo Stanley Karnow, người được giải Pulitzer Prize, tác giả cuốn “Vietnam: A History”, thì nguyên nhân thất bại là không cắt được đường dây liên lạc từ DĐL đến các bộ chỉ huy quân sự trong nước, cho nên Tổng thống Diệm đã gọi các đơn vị về giải cứu. Vì thế, không giữ được đài phát thanh và không giữ được các nút chận vào Sài Gòn.

Qua thất bại, chúng ta thấy quân đảo chánh mắc kế hoãn binh của TT Diệm. Trình độ chính trị kém là vội đàm phán trên mặt trận mà việc thắng bại chưa ngã ngũ, thương lượng ở thế yếu, khi trong tay không có gì, tức là ở thế hạ phong. Không có mục đích chủ yếu của cuộc đảo chánh cho nên có bất đồng ý kiến, gây tranh cãi tại  mặt trận đang sôi động quyết định sống chết. Không có thống nhất chỉ huy, có lẻ vì lý do bảo mật.

4.3. Toà án xét xử

Mãi đến 2 năm sau, ngày 8-7-1963, Toà án Quân sự Đặc Biệt xét xử những người dính líu đến cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960 giữa lúc có vụ khủng hoảng Phật Giáo. Có lẻ TT Diệm muốn cảnh cáo dằn mặt những người có ý định đảo chánh.

19 sĩ quan và 34 thường dân bị kết án.

7 sĩ quan và 2 dân sự đào thoát sang Campuchia bị kết án tử hình khiếm diện.

5 sĩ quan được tha bổng.

Những người còn lại bị kết án từ 5 năm đến 10 năm tù, đày đi Côn Đảo.

Cách đó không lâu, sau cuộc Cách Mạng ngày 1-11-1963, Đệ Nhất Cộng Hoà bị sụp đổ, những người bị tù được thả ra, và những người ở Campuchia trở về nước phục vụ lại trong quân đội VNCH.

Lần đầu tiên, DĐL “chứng kiến” cuộc binh biến, đánh dấu sự xáo trộn, mở màng cho những cuộc đảo chánh làm suy yếu VNCH trên mặt trận chống Cộng sau nầy.

5* Vụ ném bom Dinh Độc Lập năm 1962

Lúc 7 giờ sáng ngày 27-2-1962, bầu trời Sài Gòn bị khuấy động bởi tiếng bom và tiếng súng máy. Dinh Độc Lập chìm trong biển khói của cuộc tấn công từ hai chiếc phi cơ ném bom A-1 Skyraider. Bom nổ, bom xăng đặc (Napalm), rocket và đại lien trút vào dinh tổng thống. (dinh cũ)

Trong 30 phút, 4 trái bom, 8 rocket và đạn đại liên đánh vào mục tiêu, phá sập bên cánh trái của DĐL. Hai phi công là Thiếu úy Nguyễn Văn Cử và Trung úy Phạm Phú Quốc, thuộc Phi đoàn 514  thuộc căn cứ Không Quân Biên Hoà.

Phi cơ của Phạm Phú Quốc bị trúng 72 viên đạn 12 ly 7, trong đó, một viên trúng bình xăng nên phi cơ phát cháy và rơi xuống sông Sài Gòn. Phạm Phú Quốc bị toán Người Nhái Hải quân đến bắt. Nguyễn Văn Cử bay sang Campuchia.

Nguyễn Văn Cử là người chủ mưu vì cha của Cử là ông Nguyễn Văn Lực, một lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng bị bắt giam vì hành động chống chính quyền của TT Diệm. Phạm Phú Quốc, người Điện Bàn, Quảng Nam, là người bị Cử lôi cuốn.

Sau khi Đệ Nhất Cộng Hoà sụp đổ, Cử về nước, tiếp tục phục vụ trong Không quân.

Năm 1965, Trung tá Phạm Phú Quốc bị tử trận khi bay từ Đà Nẳng, vượt vĩ tuyến 17 ra đánh phá đường giao thông Hà Tĩnh.

Năm 1977, hài cốt của ông được người chị là Phạm Thị Xuân Cơ cải táng ở chùa Phước Lâm, Hội An, Quảng Nam.

Dinh Độc Lập bị đánh phá lần thứ hai, thiệt hại nặng, nên phải đập phá và xây lại dinh mới theo đồ án thiết kế của KTS Ngô Viết Thụ.

6* Nguyễn Thành Trung ném bom Dinh Độc Lập

6.1. Ném bom

Lúc 8 giờ 30 sáng ngày 8-4-1975, Trung úy phi công Nguyễn Thành Trung, từ Không đoàn 540 ở Biên Hoà, bay về Sài Gòn ném bom Dinh Độc Lập. Phi cơ F-5E mang 4 trái bom 500 cân Anh và trang bị đại liên 20 ly. Lần đầu ném 2 quả nhưng không trúng đích, quay lại, ném lần thứ hai, 2 quả trúng đích nhưng chỉ có một quả nổ. Thiệt hại không đáng kể.

Nguyễn Thành Trung là Việt Cộng nằm vùng, sau khi ném bom, bay ra đáp xuống phi trường Phước Long do CSBV chiếm giữ.

6.2. Không được tin dùng

Sau năm 1975, Nguyễn Thành Trung không được CS tin dùng, phải “ngồi chơi xơi nước” cho mãi tới năm 1980 mới được giao nhiêm vụ, kiểm tra, đắp vá và sửa chửa những chiếc phi cơ của VNCH bỏ lại. Đó là những phi cơ bị “thương tích” đủ loại, nội thương, ngoại thương, trầy vi tróc vảy, bị văng miểng do pháo kích, bị trúng đạn phòng không VC trên các mặt trận, nói chung là loại “thương phế binh” bất khiển dụng.

Ở các công ty sản xuất phi cơ Hoa Kỳ, người ta kiểm tra máy móc bằng các dụng cụ điện tử, nhưng ở Hà Nội lúc đó, kiểm tra bằng mắt thường và sửa chữa bằng tay. Chỉ một vết thủng nhỏ cũng đủ làm rớt máy bay, vì tốc độ phản lực tạo ra sự ma xát cao độ bởi không khí, cho nên, vết thương lở loét tầy quầy ra đưa đến cháy nổ.

Sửa chữa xong thì phải bay thử. Mỗi lần bay như thế người lái xem như đem tánh mạng của mình ra cá độ với may rủi, đùa giởn với tử thần, giống như chỉ mành treo chuông vậy. Ngoài cái nguy hiểm đe dọa, tinh thần và danh dự bị tổn thương, vì Nguyễn Thành Trung đã từng vẫy vùng lướt gió, làm chủ bầu trời, nhưng bấy giờ chỉ được phép bay chung quanh phi trường trong 4 vòng rồi phải xuống đất ngay. Khổ tâm là ở chỗ đảng không còn tin dùng người chiến sĩ cách mạng nằm vùng nầy.

Một lần phản bội, biết đâu?...

7* Cửa Dinh Độc Lập bị húc sập

7.1. Xe tăng nào vào DĐL trước nhất?

Lúc 11 giờ 30 ngày 30-4-1975, xe tăng CSBV đã húc sập cánh cửa của dinh, đánh dấu sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hoà.

Vì sự tranh giành công trận, cho nên có nhiều tranh cãi xảy ra không dứt sau đó.

Chiếc xe tăng nào vào Dinh Độc Lập trước nhất?

Ai là người treo cờ của Mặt Trận Giải phóng ở DĐL?

Ai tiếp nhận sự đầu hàng của TT Dương Văn Minh?

Báo chí trong nước ghi nhận chiếc xe tăng số 843 với thủ trưởng Bùi Quang Thận vào sân dinh đầu tiên.

Theo David Butler, tác giả cuốn The Fall of Saigon viết năm 1984, ghi lại lời tường thuật của Neil Davis, một người Úc biết tiếng Việt, làm việc cho đài truyền hình NBC, đã có mặt tại

DĐL trong lúc đó, thì chiếc xe tăng vào DĐL đầu tiên mang số 844.

Còn Oliver Todd thì ghi là chiếc xe tăng số 879 do Bùi Đức Mai lái đã ủi sập cánh cửa và vào trong sân trước nhất.

7.2. Ai nói?

Bùi Văn Tùng nói với Ông Dương Văn Minh “Các ông không còn gì để bàn giao. Ông chỉ có thể đầu hang vô điều kiện…”

Trong cuốn Tears Before the Rain, xuất bản năm 1990, tác giả Larry Engelman đã phỏng vấn Đại tá Bùi Tín, ông Tín nói ông là người gặp TT Dương Văn Minh và nói “Không có vấn đề bàn giao quyền hành. Quyền hành của ông đã sụp đổ. Ông không còn gì trong tay để bàn giao. Ông không thể chuyển giao cái mà ông không có” (Larry Engelman)

8* Kết

Ngày 30-4-1975, Dinh Độc Lập mất. Nước Việt Nam Cộng Hoà mất, và người dân miền Nam mất tất cả. Đổi tiền, Kinh tế mới, Trại tù cải tạo, đã làm mất hết tiền bạc, nhà cửa và mất tự do. Một cuộc đổi đời thực sự bắt đầu. Trước hết là Tư bản “mại sản”, nghĩa là đem bán hết những gì có thể bán được, chỉ để lấy miếng ăn. Bán hết, thì xếp hàng mua gạo và ăn bo bo dài dài.

Tháng tư năm 1975 là ngày tháng không bao giờ quên được, đối với những người còn trí nhớ.