Home Văn Học THƠ Các thi sĩ TRÍCH THƠ TẾ NHỊ

TRÍCH THƠ TẾ NHỊ PDF Print E-mail
Tác Giả: saigonecho sưu tầm   
Thứ Sáu, 26 Tháng 8 Năm 2011 08:12

 TẾ NHỊ, MỘT TÁC GIẢ LỚN TRONG LÀNG THƠ TRÀO LỘNG MIỀN NAM THẾ KỶ 20 .

Nhà thơ Tế Nhị tên thật là Lê Văn Chính, sinh ngày 15/3/1907 tại làng Vĩnh Kim, tỉnh Mỹ Tho...

 

Khoảng thập niên 1930, ông sang Campuchia lập nghiệp, làm nhân viên Tòa Công Sứ Pháp ở Nam Vang. Đến năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, ông rời Camphuchia về sinh sống tại làng cũ. Nhưng vì tình hình nông thôn bất ổn nên ông lại đưa gia đình tản cư lên Sài Gòn, làm công chức phục vụ Chính Phủ Việt Nam. Về hưu năm 1962. Cư ngụ tại đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận, Sài Gòn.
Ông ở lại Sài Gòn sau ngày 30 tháng Tư 1975. Và mất tại đây ngày 9 tháng 3 năm 1986. Thọ 80 tuổi.
Tế Nhị là một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ 20 vừa qua. Thơ ông đượm màu sắc trào lộng dí dỏm với những nhận xét rất tinh tế, chan chứa tình người, phản ảnh trung thực bộ mặt xã hội.
Hầu hết những bài thơ dưới đây của Tế Nhị được trích từ tác phẩm THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA THI SĨ TẾ NHỊ do Thừa Phong và Lê Thanh Phong sưu tập và xuất bản năm 1996 tại  Hải Ngoại.
                                    [Hồ Công Tâm – August 1st 2006]
 
 
-1-

Không tựa

Trăng khuyết mười hôm lại thấy tròn
Mình chưa tám chục sạch mầm non
Lem nhem mắt phượng nhìn hoa héo
Lận đận chân cheo trợt lối mòn
Giận chó mắng mèo thương mụ vợ
Lìa nhà xa xứ tội thằng con
Bịt mồm chửi khẽ vào đêm vắng
Lại sợ già nua dở chịu đòn
[1984]
 
-2-

 Lo xa

 Mới bốn giờ khuya thức dậy ho
Tự mình kiểm thảo bụng đâm lo
Lo từ tháng trước thân tê bại
Lo mấy hôm nay mắt tối mò
Lo Thái Bình Dương giờ sóng gió
Lo Liên Hiệp Quốc chuyện dằng co
Lo đầu thế kỷ hai mươi mốt
Ta chết, còn ai để móc lò?

-3-

Quý Hợi cảm đề

Dù muốn dù không chuyện đã rồi
Mũi phàm rán chịu đựng mùi hôi
Mậu Thân năm ấy bồ ra mặt
Quý Hợi giờ đây tớ liếm môi
Chén đắng trên tay mòn mỏi cạn
Đêm dài trước mặt lạnh lùng trôi
Hơn gì đứa bé sơ sinh nhỉ
Tự hãm mình trong một chiếc nôi!
[30.3.1983]
 
-4-

Thua bạc

Khạc chẳng ra cho, nuốt chẳng vào
Ăn làm sao lại nói làm sao ?
Dằn lòng cảm thấy lòng chua chát
Cất tiếng nghe như tiếng nghẹn ngào
Những tưởng rằng mình con bạc giỏi
Nào ngờ chính nó nước bài cao
Phủi tay đứng dậy, thôi đành vậy
Sông núi còn đây, mất mát nào ?
[1976]
 
-5-

Coi chừng chó dữ

Độ trước Sài Gòn khắp đó đây
“Coi chừng chó dữ!” bảng treo đầy
Giờ thương ông chủ buồn trăm chuyện
Khi thấy thằng Bờm hách một cây!
Ngồi được đầu voi, quên chuyện chó
Trông vào cái dở kiếm điều hay
Bà ôm bó củi nhìn ông hỏi:
-Tôi dại hay khôn trước cảnh này?
[1977]
 
-6-

Đùa Ông Táo

Đùa cợt vô tình chạm Táo Quân
Phản công ông ấy chọi ba vần
Được làm Vua Bếp, thua làm giặc
Túng bán lò ga, kẹt bán quần
Thuở trước ta còn tin Thượng Đế
Giờ đây bay cũng nhiễm Vô Thần
Đầu năm Tân Dậu ta từ chức
Non nước hưng vong lão cóc cần!

-7-

Cợt với Ma (Femme)

Củ rủ ngồi như chó giữ nhà
Nhà còn chi nữa, ngoại trừ ta ?
Mấy năm tọa thực tiền không cánh
Một cuộc tang thương chuyện quá đà
Tủ kính âm thầm đi chẳng hẹn
Bàn thờ nấn ná ở … may ra
Thần tài đã ký tờ ly dị
Thì tớ làm thơ cợt với Ma …
 
-8-

Năm Mèo

Thằng tôi một vợ sợ năm Mèo
Chỉ nhớ chừng thôi dái cũng teo!
Ngả mũ chào thua quên mất hết
Ra đường gặp gái bổ nhào theo
Chua cay làng tếu đùa dư sức
Thắng bại sân đời vật mấy keo
Ất Mão quều quáo chờ vận hội
Đinh Mùi six neuf cóc lo nghèo
[1976]  
 
-9-

Mao Trạch Đông

Vạn lý trường chinh hách một thời
Đấu tranh giai cấp phất cờ chơi
Tám trăm triệu lẻ xoay hồn nước
Sáu chục năm dư đọ sức trời
Đất động Đường Sơn dân chưa tỉnh (1)
Tang trùm Trung Quốc lệ còn rơi (2)
Xếp trang lịch sử oai hùng lại
Ôm cái trăm năm … bỗng bật cười!
[14.9.1976]
(1) Động đất ngày 28.7.1976
(2) Mao chết ngày 9.9.1976
 
-10-

Đặng Tiểu Bình

Len lỏi tìm nghe chuyện chính tình
Khách quan mà luận chuyện Giang Thanh
Ông chồng vĩ đại vừa an giấc
Bà vợ phong sương đã thọ hình
Triết thuyết vào sâu càng rắc rối
Lập trường có vững cũng rung rinh
Chẳng qua cái chết Mao đồng chí
Là dịp hồi sinh Đặng Tiểu Bình
[1976]
 
-11-

Tranh sống

Người ta đa số sống phây phây
Mười bạn tôi quen chín đứa gầy
Lúc trước thừa tiền chê phở Bắc
Giờ này thiếu gạo nhớ cờ Tây
Xôi dừa cháo đậu, hoan nghênh nó
Bít-tết ra-gu, vĩnh biệt mày!
Đói phải cần ăn cầu cái sống
Sống xem thằng khác chết càng hay!
[2.19.1976]
 
-12-

Rước ông bà 

Chiều Ba Mươi Tết rước Ông Bà
Mình giả vờ quên, vợ nhắc ra
Bán chiếc đàn cò mua khứa cá
Đem đôi hàm ếch đổi con gà
Cháu từ Đồng Tháp cho cân gạo
Bạn ở Cao Nguyên tặng gói trà
Chợt nhớ bàn thờ đi tháng trước
Thôi đành lễ bái trước hàng ba!
[1978]
 
-13-

Viếng bạn già

Xách gậy đi thăm mấy bạn già
Vợ chồng anh ấy đói như ma
Bà bươi mô rác tìm que củi
Ông dạo bờ ao nhặt trái cà
Hai cháu mình trần rình bắt nhái
Một con chó ghẻ ngủ trông nhà
Gặp nhau chủ khách òa lên khóc
Tâm sự ngàn đời khó nói ra
[1978]
 
-14-

Vào cửa tử

Mạc Đĩnh Chi không có chỗ nằm
Đưa nhau tìm mảnh đất xa xăm
Vào lò hỏa táng thương hài cốt
Theo ngọn triều dâng bặt tiếng tăm
Chết phải lo chôn là đủ khổ
Chôn mà chưa chết lại càng căm
Biết rằng cuộc sống giờ bê bối
Sao chẳng cười to, lại khóc thầm?
[1984]
 
-15-

Xuân hài hước (I)

Gà mừng Tân Hợi gáy vang rân
Được đọc lời thơ tặng “quả nhân”
Mới biết Đường Th còn bảnh tẻng
Thì ta trào lộng chửa cù lần
Vỗ tay đốt pháo ba ngày Tết
Bôi nhọ lên tường một chữ Xuân
Bắt gặp Táo Quân ngồi xó bếp
Cái lưng không áo, đít không quần
 
-16-

Xuân hài hước (II)

Nàng về … thăm mảnh đất Quê Hương
Mây vén màn tơ, gió đón đường
Oanh cất tiếng chào vang dặm liễu
Hoa nghiêng mình đón trĩu cành sương
Tranh hoa trúc viện treo vài bức
Thi khách thơ đề tặng mấy chương
Chợt một tiếng cười xen tiếng pháo
Nàng Xuân xuất hiện, ốm… lòi xương!
[5.2.1981]
 
-17-

Không tựa

Mọi việc gia đình chuẩn bị xong
Giờ này nhất định tới phiên ông
Ta đi bất chấp đời mưa gió
Ai ở lo giùm chuyện núi sông
Nhớ lại bạn bè còn tiếc mãi
Để xem em út có buồn không?
Thênh thang trước mặt đường vô định
Tìm đến non Vu hoặc đảo Bồng
[1983]
 
-18-

Muốn để râu

Chẳng sợ đời ban một chữ D…
Sợ cằm tua tủa mép lê thê
Gái phô bộ ngực trông ra phết
Già thiếu hàm râu kể cũng ê
Họ đếch ra hồn nên chúng mỉa
Mình đừng xấu máu có ai chê ?
Năm nay để thử vài ba sợi
Không giống Quan Công cũng giống hề
 
-19-

Đổi tên đường

Tên đường độ trước “Võ Di Nguy”
“Nguyễn Kiệm” vừa rồi bảng mới ghi
Thành tích hẳn hoi tay độc đáo
Tác phong âu cũng hạng gan lì
Phố lầu phố trệt tràn ra đấy
Xe buýt xe lam chả thiếu gì
Hân hạnh chào mừng đòng chí Nguyễn
Họ Hồ chắc tớ bỏ nhà đi!
[12.1985]
 
-20-

Ngừa gian

Tuổi đời chồng chất tháng năm qua
Bỏ cái xuân xanh chụp cái già
Góp mặt Đinh Mùi tìm lẽ sống
Theo chân Giáp Tý kiếm đường ra
Buồn vui chia sẻ ta cùng bạn
Hay dở xin nhường Mỹ với Nga
Việc lớn có thừa tay giữ nước
Ngừa gian ta thủ gậy coi nhà
[31.8.1984]
 
-21-

Giấy mời

Thích nhất là khi được giấy mời
Tự nhà Bưu Điện đến nhà tôi
Nếu không bồ bịch bà con quý
Thì của anh em bốn góc trời
Phí tổn trăm đồng không đến nỗi
Thuốc men vài món sống cầm hơi
Đời cười ăn cắp, chê ăn trộm
Mình lại … enfin giống mọi người
[1983]
 
-22-

Chủ chứa

Tạm ngưng sát phạt để mừng xuân
Canh lụn dầu hao, túi cạn dần
Mỹ bảo: Thành công trừ xích quỷ
Bác khoe: Cứu nước đuổi hung thần
Quốc gia đả phá mê hồn trận
Việt Cộng chu toàn “giải phóng quân”
Rốt cuộc thua to là chủ chứa
Buồn cười chủ chứa lại là dân!
 
-23-

Ảo vọng

Xét ra ta cũng hết ngon lành
Tóc bạc xua dần mớ tuổi xanh
Viết lách lăng nhăng lời chẳng ổn
Nói năng lẩm cẩm ý không thành
Bắt bồ xã hội bàn giai cấp
Ôm cổ hung thần chửi chiến tranh
Nằm đợi thái bình mòn cả mắt
Xa gần máu vẫn nực mùi tanh
[1984]
 
-24-

Ngược dòng Tây Hớn

Mưa gió thời gian sạch oán cừu
Ngược dòng Tây Hớn phút vô ưu
Đào mồ cuốc mả không còn Hạng
Tranh bá đồ vương chẳng có Lưu
Hàn Tín cậy to công … bỏ mạng
Trương Lương nhờ sang trí… qua cầu
Trở về hiện tại thăm Hoa Việt
Đỏ rực biên thùy lửa chiến khu

-25-

Ngược dòng

Xét chuyện xưa và nghĩ chuyện nay
Mỗi tên là một “đấng ăn mày”
Tham danh trục lợi từng ra mặt
Giết bạn gieo thù chẳng nới tay
Khuấy nước tung lên mờ khói lửa
Chọc trời đổ xuống tối đêm ngày
Để rồi chung cuộc ôm nhau khóc
Ông viết thơ cười tặng chúng bay!
[17.8.1984]
 
-26-

Vô song đề

Thế là mất một tài hoa
Nạn nhân muôn thuở Thanh Nga nửa đời
Bàn tay đẫm máu giấu rồi
Hậu trường ai khóc ai cười với ai ?


Kịch nghệ thi ca mấy nhịp cầu
Oanh vàng bút thép cảm thông nhau
Vang hai tiếng thét đời ra mộng
Dứt một đêm tàn biển hóa dâu

Khoác áo tài hoa xa vạn dặm
Đem vòng chiến thắng tặng ngàn sau
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
Thề chẳng trăm năm thấy bạc đầu

Lại một trang đời, một tuổi xuân
Vũ trường ca nhạc khóc giai nhân
Một khi thế hệ mờ lương giác
Là bóng Thanh Nga quyện tử thần

Xao xuyến Hồ Thành đêm biến động
Ngẩn ngơ quần chúng phút phân tâm
Đông về, gió bấc mưa phùn hỡi
Bớt lạnh lùng cho ấm mộ phần!
[2.1978] 

 -27-

 Chán mớ đời

Suốt một mùa xuân chó má này
Ngồi nhìn thiên hạ nhậu, mình say
Quà từ xa biếu vào tay hạm
Quán ở gần than: Hết thịt cầy!
Liếm mép nhớ chừng tô phở Bắc
Thẹn lòng tiếc rẻ món cờ Tây
Nàng Thơ ví chẳng nằm bên cạnh
Ta đã ngàn thu vĩnh biệt mày
[1982]
 
- 28 -

Chuyện kia

Xuân này tuổi mới bẩy mươi hai
Bỏ gậy thì trông cũng bảnh trai
Sau cặp kính râm ngời ánh mắt
Dưới đôi áo ấm nổi bờ vai
Bút còn dí dỏm gieo vần tếu
Chân vẫn thênh thang bước dặm dài
Ngoài cái hào hoa phong nhã ấy
Chuyện kia chắc chắn chẳng bằng ai
[1978]
 
- 29 -

Chịu chơi

Cũng muốn khoanh tay gác bút rồi
Nhưng đời đâu chịu để mình thôi
Khi nhà khảo cổ buôn nồi đất
Và bậc tôn sư bán chợ trời
Khi nữ danh ca rao bánh ngọt
Và nhà hội họa “sạc”  bình hơi
Nghẹn ngào nhìn cảnh trâu hòa nhạc
Khi cóc bình thơ, khỉ dạy đời
[1976]
 
-30-

Xuân bảy mươi bốn tuổi

Năm mới càng gần, bạn cũ xa
Trong vòng lẩn quẩn thoát không ra
Ba phần thế kỷ cười bên cạnh
Một vũng tang thương lọt giữa nhà
Kệ sách ngàn đời cân mấy ký
Kinh Thi vài quyển dạy gì ta ?
Mặc cho Đông lạnh, Xuân tàn tạ
Thơ vượt thời gian đếch sợ già!
[1981]
 
- 31 -

Tết buồn

Ăn mừng một cái Tết kiêu sa
Làm thịt công hầu đãi bạn ta
Cột gỗ ngang tàng câu đối hách
Sân rêu ngạo nghễ cội mai già
Treo dây pháo chuột xin đừng đốt
Bày hộp xì gà cấm mở ra
Ly chén ngổn ngang trà rượu vắng
Buồn như dân có nước không nhà
[1980]
 
-32-

Đổi nghề

Đường luật từ lâu bất hợp thời
Mở Trường Minh Đạt cáp gà chơi
Thơ không xã hội không người đọc
Gà có ca-ry có dịp mời
Cần bánh mì ngon Phường Tổ cấp
Độn khoai lang ế bọn mình xơi
Giờ đây Lý Bạch hồi sinh thử
Chẳng marché noir cũng chợ trời
[1977]
 
-33-

Xuân vô duyên

Tuổi tác già nua gác bỏ ngoài
Xuân này nhắc lại chuyện thời trai:
Yến oanh lầu mộng từng quen lối
Hoa bút làng thơ cũng sánh vai
Tình bạn khắp ba miền mở rộng
Cái ta chưa một tiếng than dài
Trông gương mới biết mình lên lão
Cười chẳng ra hồn, cợt với ai!
[1977]

-34-

Miễn tặng quà cưới

“Tặng Quà Xin Miễn” thật không ngờ
Ta bực đàn anh, há chịu ngơ?
Viết séc, Nhà Băng không khứng trả
Mừng suông, các cháu lại làm lơ
Muốn cho máy lạnh, đông gần đến
Hỏi thử xe hơi, hãng dạy chờ
Tính quẩn tính quanh không tính nổi
Thôi đành bẽn lẽn tặng bài thơ!
[18.11.1977]

-35-

Khóc con KiKi

Ba năm làm vệ sĩ trông nhà
Canh gác đêm ngày bạn với ta
Cá thịt không dồi dào đúng lệ
Cơm canh cũng đắp đổi theo đà
Bỗng khoai lang củ vươn mình đến (1)
Thì số mệnh mày hết lối ra!
Chẳng nỡ đưa mi vào quán nhậu
Thôi đành gởi xác bãi tha ma!
[1978]
(1) Lúc Cộng Sản mới vào Miền Nam, dân không đủ gạo ăn, phải ăn độn khoai lang. Chủ còn không chạy đủ gạo ăn, lấy chi mà nuôi chó. Chó không ăn được khoai sắn thì chỉ còn nước chết!
 
TẾ NHỊ [1907-1986]