Tình Xưa Nghĩa Cũ |
Tác Giả: Phó Tế Nguyễn Mạnh San | ||||
Thứ Hai, 04 Tháng 7 Năm 2011 05:29 | ||||
Thầy Phó Tế Nguyễn Mạnh San trong cuối thập niên 1970s và đầu 1980s làm thêm nhiệm vụ đón tị nạn từ các trại tị nạn Đông Nam Á tới Oklahoma. (LTS: Thầy Phó Tế Nguyễn Mạnh San vừa xuất bản Tuyển Tập Pháp Luật Hoa Kỳ Thực Dụng, gồm nhiều bài viết do tác giả kể lại những kinh nghiệm và cảm xúc trong nhiệm vụ của một chuyên gia luật pháp tại Tòa Án Liên Bang Oklahoma và cũng là một tuyên úy mục vụ trại giam. Các bài trong Tuyển Tập trích đăng nơi đây sẽ giúp thêm kiến thức pháp luật cần thiết trong đời sống tại Hoa Kỳ. Trân trọng cảm ơn Thầy Phó Tế Nguyễn Mạnh San.) Chắc hẳn những người Việt Nam chúng ta cho đến giờ phút này, có rất nhiều người không thể quên được cuộc di tản không tiền khoáng hậu, vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975 của mấy trăm ngàn người Việt, đã phải rời bỏ quê hương yêu dấu của mình được phép đến Hoa Kỳ theo diện tỵ nạn cộng sản và tiếp theo những ngày tháng năm sau đó, có hàng vạn người tiếp tục bỏ nước ra đi, vượt biên bằng những chiếc thuyền nhỏ mong manh trên biển cả hoặc bằng đường bộ, để hy vọng sẽ đến được bến bờ tự do Hoa Kỳ. Cũng chính vì lý do bất khả kháng phải rời bỏ quê hương yêu dấu của người Việt Nam chúng ta, ra đi không hẹn ngày về này mà đã có hàng ngàn người đã phải bỏ mạng trên biển cả, hoặc nhiều đàn bà và con gái bị hải tặc hãm hiếp bất kể tuổi tác, rồi kể cả những người đã may mắn đến được bến bờ tự do Hoa Kỳ, cũng phải chịu đựng biết bao nhiêu hoàn cảnh ngang trái, éo le, vui buồn lẫn lộn: Vui vì đã tìm được sự tự do trên xứ người, buồn vì phải xa lìa những người thân yêu nhất đời của mình như cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em ruột thịt, họ hàng xa gần và bạn bè thân thiết, tưởng chừng như muôn đời sẽ không còn được gặp lại mặt nhau nữa, nên có một số người trở thành mồ côi cha mẹ, mất vợ hay mất chồng, phải sống trong trạng thái cô đơn, và vì xa mặt cách lòng nên đã dẫn đưa đến một số thảm cảnh khó xử: Người có chồng còn bị kẹt lại ở Việt Nam sẵn sàng chấp nối với người có vợ còn đang bị kẹt lại ở Việt Nam vì không biết đến ngày nào mới được đoàn tụ với nhau tại Hoa Kỳ. Có một số những trường hợp, những người cựu quân nhân QLVNCH khi còn ở trong các trại tỵ nạn không dám khai thật trên giấy tờ với cơ quan di trú, là mình đã có vợ con còn đang ở Việt Nam vì sợ khai sự thật có thể sẽ làm liên lụy đến người ở lại nên đành phải khai dối là độc thân. Nhưng sau hơn 33 năm, những người Việt thuộc đợt di tản đầu tiên hay những người vượt biên đến Hoa Kỳ đã được trên dưới 20 năm, thì hầu hết đã trở thành người Mỹ gốc Việt, nghĩa là đã nhập tịch cả rồi, và những cặp vợ chồng vì hoàn cảnh ngoài ý muốn của họ đã đưa họ đến cuộc sống vợ chồng chắp nối mà chúng tôi vừa nêu ở trên, thì ngay sau khi có chương trình đoàn tụ gia đình dành cho những người Việt tỵ nạn, có những cặp vợ chồng sống trong tình trạng chắp nối này, đã tự giải quyết tình trạng của mình một cách ổn thoả tốt đẹp, có nghĩa là cả 2 bên đều đồng ý chia tay nhau, để mỗi bên được tự do tiến hành thủ tục nạp đơn với cơ quan di trú Hoa Kỳ, xin bảo trợ chồng con hoặc vợ con còn đang bị kẹt lại tại quê nhà. Cho đến ngày hôm nay, theo tin tức cho chúng tôi biết, vẫn còn một số trường hợp vợ chồng chung sống với nhau trong hoàn cảnh chắp nối, nhưng họ chưa muốn chia tay nhau để mỗi bên được tự do bảo trợ cho chồng con hay vợ con đang còn sống tại quê nhà vì nhiều lý do tình cảm tế nhị, không tiện nói ra đây. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp này, họ rầt muốn giải quyết tình trạng chắp nối, mặc dù đã sống chung với nhau trong nhiều năm qua, nhưng vì cả hai bên đều sợ bị liên lụy đến pháp luật, nhất là đối với cơ quan Di Trú Hoa Kỳ nên đôi bên không dám xúc tiến giải quyết vấn đề này. Sau đây chúng tôi xin trình bày cùng đọc giả một câu chuyện có liên hệ đến pháp luật, đã xảy ra cách đây nhiều năm, với mục đích duy nhất của chúng tôi là xin góp ý kiến cho những cặp vợ chồng chắp nối nào ở Hoa Kỳ và hiện nay người bạn đầu đời của mình cùng với các con của mình vẫn còn bị kẹt lại tại quê nhà, mà những cặp vợ chồng này thực sự rất muốn chia tay nhau từ lâu, để mỗi bên được quyền tự do quyết định nạp đơn bảo trợ cho những người thân yêu nhất đời của mình, thì vẫn còn chưa muộn; đồng thời cũng là một dịp ngàn năm một thuở cho mình được thể hiện câu: “Tình Xưa Nghĩa Cũ” và nhắc nhở lại lời thề hứa năm xưa: “Thương Hoài Ngàn Năm” lúc ban đầu hai người yêu nhau. Thật sự, như chúng ta thường biết, khi một sự việc xảy ra về mặt tình cảm, nhiều khi không còn có cách gì có thể giải quyết được sự éo le ngang trái của những người trong cuộc gây ra. Nhưng nếu chúng ta đem áp dụng những nguyên tắc pháp lý để giải quyết vấn đề tình cảm, thì hầu như mọi vấn đề khó khăn thế mấy của vấn đề, đều có thể giải quyết được, miễn là những nhân vật chủ yếu trong cuộc phải hy sinh chấp nhận một ít hay nhiều sự thiệt thòi về phần mình. Có như thế mọi rắc rối khó khăn của vấn đề tình cảm sẽ được giải quyết một cách ổn thoả cho người ở thế chủ động cũng như cho người ở thế thụ động. Một trường hợp xảy ra có nội dung tương tự như nhiều trường hợp khác, đã được giải quyết một cách tốt đẹp trong nhiều năm qua mà chúng tôi trực tiếp cũng như gián tiếp đã thu thập được từ những nhân vật chủ yếu trong câu chuyện, để xin được kể lại câu chuyện này cùng quý đọc giả và quý vị sẽ nhận xét thấy vấn đề pháp lý trong câu chuyện tình cảm này sẽ được giải quyết như thế nào, và trực tiếp giúp cho 2 người c Ông Tư là một cựu công chức trung cấp của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, đã được một trực thăng Hoa Kỳ đưa lên hạm đội 7 đang đậu ngoài khơi hải phận quốc tế vào những giờ phút chót trước khi nước mất. Ông ra đi bỏ lại Việt Nam vợ và 4 con dưới tuổi vị thành niên. Khi sang tới Hoa Kỳ, nhờ trước kia ông đã được chính phủ gửi đi tu nghiệp nhiều lần tại đây nên ông được một cơ quan tư nhân thâu dụng ông vào làm việc theo đúng ngành mà ông đã học trước kia. Sau gần 3 năm làm việc miệt mài chăm chỉ cho quên thời gian tẻ lạnh, để tâm tư ông vơi đi một phần nào nỗi nhớ vợ nhớ các con, cuộc sống của ông gần giống như một nhà tu hành tại gia, sáng xách ô đi tối xách ô về. Suốt trong thời gian này, ông không kề quen biết một người đàn bà nào khác. Những lúc đêm khuya thanh vắng, tuyết rơi lạnh lẽo về mùa đông, ông lại đem hình ảnh người vợ xinh tươi chụp chung với 4 đứa con yêu dấu của ông ra nhìn ngắm, để hồi tưởng lại những kỷ niệm hạnh phúc êm đềm xưa kia, làm sưởi ấm một phần nào cõi lòng cô quạnh của ông trong căn phòng đơn độc nơi xứ lạ quê người. Nhiều lúc ông nhìn ngắm hình ảnh vợ con trong tấm hình, làm ông động lòng thương xót mắt nhoà lệ, không còn thấy gì nữa trên tấm hình mà chỉ còn nghe thấy tiếng lòng mình thổn thức, ngậm ngùi nuốt những giọt nước mắt từ từ lăn trên đôi má xuống đôi môi ông. Nhưng người ta vẫn thường nói thời gian là liều thuốc thần tiên, quả thật đúng như vậy, chuyện gì phải đến thì cũng sẽ đến, có lúc buồn thì cũng phải có lúc vui và chỉ có thời gian mới có thể chứng minh được lòng mình. Vào một hôm trời nắng ấm, ông Tư tình cờ gặp lại một nữ cộng sự viên duyên dáng trước kia làm việc chung một cơ quan với ông tại Việt Nam. Cô tỏ ra rất vui mừng được gặp lại ông và kể lại cho ông nghe chuyện gia đình của cô, chồng cô là một cựu sĩ quan pháo binh trong QLVNCH, nên sau một thời gian ngắn bị cầm tù ở miền Nam, thì bị đưa ra ngoài Bắc tiếp tục ở tù và không biết đến bao giờ chồng của cô mới được thả ra về, nên cô cùng 2 con đã tìm đủ mọi cách vượt biên để sang được tới đây. Rồi thoạt tiên trong tình bạn đồng nghiệp cũ, hai người thường đi lại thăm hỏi nhau, coi như bạn và chỉ trao đổi với nhau qua những câu chuyện bâng quơ cho vui, thỉnh thoảng ông lại tình nguyện đưa đón 2 con của cô đi shopping riêng với ông, giúp cho ông có cảm giác như ông đang dẫn con của ông đi chơi với ông. Trong thời gian hai người gặp lại nhau thắm thoát trôi qua mau, tưởng chừng như một cơn gió thoảng, nhất là trong lòng ôngTư bị nguội lạnh từ nhiều năm qua, nay chạm phải luồng điện ái tình làm hâm nóng lòng băng giá của ông lại. Do đó, hai người đã phải lòng nhau như câu “Cá cắn câu biết đâu mà gỡ, chim vào lòng biết thuở nào ra” và không đầy một năm sau, cô bạn đồng nghiệp của ông đã cho ra đời một cậu bé kháu khỉnh giống hệt ông như 2 giọt nước. Thế rồi đi xa hơn nữa, hai người đã dẫn nhau đến toà án địa phương để cùng nhau ký giấy giá thú chính thức thành vợ chồng… Cuộc sống êm đềm của đôi uyên ương chắp nối này đang đi đến độ nồng thắm tuyệt đỉnh của tình ái, là cô sắp sửa tặng thêm cho ông Tư một công chúa xinh tươi nữa, thì ông lại nhận được một điện tín khẩn cấp của vợ ông gửi cho người bạn ông ở Pháp từ Việt Nam qua, báo tin cho ông biết là thằng con trai đầu lòng của ông 15 tuổi, bị đưa đi làm lao động công trường đã chết vì bệnh sốt rét. Tin này như một tia sét đánh trúng vào con tim ông, làm lương tâm ông hồi tỉnh lại, tự thú nhận với lòng mình là từ bấy lâu nay ông đã phạm một lỗi lầm quá lớn đối với vợ con ông ở quê nhà. Vì quá mãi mê vui thú bên người vợ chắp nối này mà ông đã quên hết tình xưa nghĩa cũ với người bạn đời ban đầu của mình, quên tất cả những lời thề hứa sẽ trung thành suốt đời mình với người vợ trong nghi thức thành hôn tại Nhà Thờ, quên cả trách nhiệm và bổn phận làm người cha đối với 4 đứa con còn thơ dại. Mặc dù nhiều lần vợ và đứa con lớn, đều viết thư hối thúc ông hãy làm giấy bảo lãnh cho vợ và các con sang đoàn tụ với ông ở bên này, nhưng ông vẫn đánh ván bài tảng lờ như không biết gì hết. Theo giải thích của ông cho biết, sở dĩ ông phải đánh ván bài tảng lờ như thế là vì 2 lý do: Điều thứ nhất, khi ông tới Hoa Kỳ, ông đã khai báo với nhân viên sở di trú là ông còn độc thân. Lúc đó ông nghĩ rằng khi khai như vậy sẽ tránh cho vợ con ông còn kẹt lại quê nhà không bị chính quyền cộng sản hạch hỏi và gây khó khăn vì có chồng đi vượt biên, hơn nữa chồng lại là một công chức trung cấp cho chính phủ VNCH hiện đang tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Điều thứ hai ông đã lập giá thú với người vợ chắp nối tại đây, ông nghĩ rằng nếu ông nạp giấy tờ bảo trợ cho vợ và 4 con với sở di trú, thì ông sẽ bị truy tố ra toà về 2 tội phạm: Tội thứ nhất là tội song hôn có chứng cớ hiển nhiên qua 2 tờ hôn thú. Tội thứ hai là khai man trá tình trạng độc thân qua lời tuyên thệ trước mặt nhân viên chính quyền của sở di trú Hoa Kỳ, là cơ quan có quyền tài phán. Qua những lời giải thích về sự việc diễn tiến trên đây của ông Tư, chúng ta nhận thấy ông đã viện dẫn những lý lẽ để biện minh cho hành động của ông đối với vấn đề này một cách quá chủ quan, không vững chắc, chỉ được căn cứ vào sự hiểu biết thông thường của riêng ông, vì ông thiếu sự hướng dẫn chuyên môn về Pháp Luật Hoa Kỳ thuộc loại pháp luật đa dạng và phức tạp nhất trên thế giới hiện nay. Như chúng tôi đã trình bày ở phần đầu, là giải quyết một vấn đề tình cảm thì rất khó khăn, nhiều khi phải bó tay đầu hàng, không tìm ra lối thoát và đành phải chờ đợi phép lạ mầu nhiệm của Thượng Đế ban ơn xuống thì mới giải quyết được. Nhưng ngược lại, để giải quyết một sự việc bằng pháp lý, thì sự việc đó dù khó khăn đến đâu đi chăng nữa, vẫn có thể giải quyết được, miễn là chúng ta được hướng dẫn về pháp luật một cách chính xác tường tận. Nên nhớ rằng chúng ta đều là những người phải rời bỏ quê hương theo diện tỵ nạn cộng sản, sang đây trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, không có thời gian để chuẩn bị tư tưởng cũng như vật chất nên mọi điều sai lầm của chúng ta trên giấy tờ, qua những lời khai không đúng sự thật với cơ quan di trú, đều có thể xin điều chỉnh lại cho đúng thực trạng, tuỳ theo từng trường hợp của mỗi cá nhân qua nhân chứng, qua những giấy khai sinh, giấy rửa tội, giấy hôn thú hay bằng những lời khai hết sức thành thật và hợp lý của chúng ta. Trong trường hợp của ông Tư trên đây, là ông vẫn muốn bảo trợ vợ và 3 con sang đây theo diện đoàn tụ gia đình, mà ông vẫn không bị liên lụy đến pháp luật như ông đã nghĩ. Sau khi biết đích thực ông Tư thật tâm muốn bảo trợ cho vợ và các con sang đây đoàn tụ gia đình với ông, dù ông đang ở trong một tình trạng khó xử với người vợ chắp nối và sắp sửa có thêm 1 con nữa với người vợ này. Nhưng tình xưa nghĩa cũ với người vợ ban đầu đã sống lại trong con tim của ông, hình ảnh một người vợ hiền thục, duyên dáng, nết na, đảm đang đã chung sống với ông hơn 12 năm trước ngày mất nước, nhất là trải qua nhiều năm xa cách nhau, biết bao nhiêu sự đổi thay chua xót ở quê nhà mà vợ ông vẫn giữ một lòng chung thủy với ông, lòng hy sinh, tận tụy làm việc cực nhọc mỗi ngày của vợ ông để nuôi dưỡng 4 đứa con thơ dại thay cho ông, với niềm hy vọng duy nhất là sẽ có ngày được đoàn tụ với ông. Hơn thế nữa, đứa con trai đầu lòng của ông là biểu tượng của biết bao kỷ niệm êm đẹp cho mối tình đầu của vợ chồng ông, thì nay nó đã chết. Sự ra đi vĩnh viễn của nó làm thức tỉnh con tim ông, ông rất hối hận và ăn năn về những hành động sai quấy của mình đối với vợ con từ bấy lâu nay, càng nghĩ về vợ con ông đang sống thiếu thốn cơ cực ở quê nhà bao nhiêu, thì lương tâm ông lại càng bị dày vò cắn rứt bấy nhiêu, vì trong tiềm thức ông lúc này cho ông biết ông là kẻ chủ mưu phản bội người vợ chung thuỷ của ông và là người cha vô lương tâm vô trách nhiệm với con cái. Nay ông muốn làm tất cả những gì mà ông có thể làm được, để đem được vợ con sang đây, hầu có thể đền bù lại một phần nào những lỗi lầm mà ông đã phạm đối với vợ con ông. Chúng ta vẫn thường suy luận và cùng đồng một quan điểm với nhau rằng, nếu một người nào đó trong chúng ta đã làm những điều lầm lỗi và người đó đã tự thú trong lòng, là chính mình đã làm những điều lỗi lầm đó và hứa với lòng mình là sẽ không bao giờ tái phạm những lỗi lầm đó nữa, thì những lỗi lầm đó sẽ được tha thứ và người đó sẽ trở thành kẻ đáng thương hơn đáng trách. Chúng ta có thể coi ông Tư cũng nằm trong trường hợp của một người đáng thương hơn đáng trách và ông Tư đã đến gặp chúng tôi để yêu cầu được hướng dẫn về mặt pháp lý đối với cơ quan di trú, để ông tiến hành thủ tục bảo trợ cho vợ con ông sang đây theo diện đoàn tụ gia đình như sau: 1. Tiến hành thủ tục xin ly dị người vợ chắp nối tại toà án địa phương nơi cư ngụ. Trước khi tiến hành thủ tục, ông Tư cần lựa lời giải thích cho bà ta biết rõ lý do tại sao ông phải ly dị bà ta và cần phải bày tỏ lập trường vững chắc của ông, là toà án lương tâm của ông không thể cho phép ông tiếp tục làm ngơ vấn đề bảo trợ người vợ đầu tiên và các con của ông đang chờ đợi ông từng ngày từng giờ từng phút từ Việt Nam. Thuyết phục bà nên hiểu rằng, dù ông có ly dị bà ta nhưng bổn phận thiêng liêng cao cả và trách nhiệm pháp lý của ông đối với đứa con hơn 1 tuổi và đứa con sắp trào đời của ông với bà ta, cũng như 2 đứa con riêng của bà ta vẫn không có gì thay đổi, ông hứa sẽ luôn luôn chu toàn săn sóc chúng nó về vật chất cũng như về tinh thần. 2. Ông nên nói cho bà ta biết, dù bà còn hay không còn thương yêu người chồng cũ của bà nữa, nhưng bà hãy nghĩ đến 2 đứa con riêng của bà với ông ta, hai đứa nhỏ hoàn toàn vô tội, không vì một lý do gì mà bà nỡ để chúng nó mồ côi cha. Sau này chúng khôn lớn, chúng sẽ oán hận mẹ nó là đã phản bội cha chúng nó. Như vậy việc ly dị sẽ giúp ích cho cả 2 người: Bà ta sẽ dễ dàng nạp đơn bảo lãnh cho chồng của bà, còn ông sẽ bảo lãnh cho vợ và các con của ông. 3. Trong trường hợp bà ta bằng lòng ly dị ông, ông chỉ cần nhờ một luật sư (tốn khoảng từ $150 đến $300) để thảo ra một thoả ước hỗ tương, ông bằng lòng sang nhượng những gì của ông mà bà ta đòi hỏi, dành quyền người mẹ nuôi dưỡng 2 đứa con của ông cho bà ta, ghi rõ số tiền ông phải cấp dưỡng hàng tháng cho bà ta để nuôi 2 đứa con cho đến tuổi trưởng thành, ghi rõ quyền đến đón 2 đứa con về với ông cuối tuần là bao nhiêu lần của mỗi tháng. Ông có thể đưa bản thoả ước này cho bà ta ký tên và có thị thực chữ ký, hoặc ông có thể đưa bà ta đến văn phòng luật sư của ông để ký tên. Tuỳ theo luật lệ của mỗi Tiểu Bang, sau khi luật sư đệ nạp hồ sơ xin ly dị tại toà, thông thường phải chờ đợi tối thiểu từ 6 tuần trở lên mới nhận được bản án ly dị. 4. Trong trường hợp bà ta không chịu ly dị ông, ông vẫn có thể nhờ luật sư tiến hành thủ tục ly dị bà ta tại toà mà không cần có sự ưng thuận của bà ta. Như vậy thời gian để nhận được bản án ly dị sẽ kéo dài lâu hơn, vì cả hai bên sẽ phải đối chất nhau trước phiên toà xử, và có thể phải chờ đợi từ 3 cho đến 6 tháng mới nhận được bản án ly dị. Lẽ dĩ nhiên bà ta sẽ được quyền nuôi con và ông phải cấp dưỡng tiền hàng tháng cho bà ta nuôi 2 đứa con của ông (Child support), có thể ông phải cấp dưỡng tiền thêm cho 2 đứa con riêng vẫn còn dưới tuổi vị thành niên của bà ta. Vì khi ông ký giấy giá thú với bà ta, là mặc nhiên ông đã chấp nhận chúng nó làm con nuôi của ông, vì khi đó chúng nó vẫn còn dưới tuổi vị thành niên, nhưng ông không phải cấp dưỡng tiền cho bà ta (Alimony) vì bà ta đang đi làm việc có lợi tức cao. 5. Khi đã nắm trong tay bản án ly dị, tức nhiên tình trạng gia đình của ông trở lại như cũ, ông đến sở di trú ngoại kiều tại địa phương để tiến hành thủ tục bảo trợ cho vợ và 3 con của ông. Trong đơn bảo trợ phải kèm theo giấy hôn thú và giấy khai sanh của các con, kèm theo bản dịch các giấy tờ này từ tiếng Việt sang tiếng Mỹ. Vì lời khai man là độc thân trước đây của ông nên sở di trú trước khi chấp thuận đơn xin bảo trợ, ông có thể nhận được thư của sở di trú mời ông đến phỏng vấn, để nghe ông giải thích về sự sai lệch này. Ông cứ khai hết tất cả sự thật, là lúc đó ông sợ vợ con ông ở Việt Nam sẽ bị liên lụy vì chức vụ của ông thuộc thành phần công chức tín nhiệm trong chính phủ VNCH trước ngày mất nước. Nên hiểu rằng luật di trú Hoa Kỳ đôi khi được thi hành một cách linh động tuỳ theo từng trường hợp đặc biệt, nó bao hàm tính chất chính trị nhiều hơn là áp dụng biện pháp chế tài theo luật hình sự. Do đó, vấn đề khai sự thật của ông sẽ được nhân viên hữu trách sở di trú xét như một trường hợp đặc biệt về sự sai lầm của ông, miễn là trong tay ông không còn có 2 tờ giá thú bị coi là phạm tội song hôn (bigamy) và lời khai gian độc thân trước kia của ông sẽ được điều chỉnh lại thành có vợ, để ông hội đủ điều kiện nạp đơn xin bảo trợ cho vợ và các con của ông từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đoàn tụ gia đình. Đúng như sự dự đoán của chúng tôi đã cố vấn cho ông Tư về vấn đề vừa nêu trên, ông đã thuyết phục được người vợ chắp nối này, để bằng lòng ly dị ông theo tất cả những điều kiện được vị luật sư ghi trong tờ thoả ước do ông đề nghị. Ông cũng không gặp một trở ngại nào với sở di trú trong việc xin điều chỉnh tình trạng và nạp đơn bảo trợ cho vợ con của ông. Điều đáng mừng hơn nữa, là chúng tôi được biết vợ và 3 người con của ông đã được đoàn tụ với ông tại Hoa Kỳ và hiện nay 2 trong 3 người con của ông, một người trở thành nha sĩ và một người đã trở thành dược sĩ; còn mối liên hệ tình cảm giữa ông và người vợ chắp nối hiện nay ra sao, thì hoàn toàn chúng tôi không biết rõ. Sở dĩ chúng tôi kể lại câu chuyện cũ này đã xảy ra cách đây hơn 15 năm, là vì mới khoảng hơn 2 tháng trước đây, có 2 trường hợp nội dung cũng tương tự như trường hợp của ông Tư trong câu chuyện trên đây, đã gọi điện cho chúng tôi từ Tiểu Bang California và Texas yêu cầu được tư vấn về vấn đề này. Trước khi xin được kết thúc đề tài mang tính chất vừa tình cảm lẫn pháp lý này, chúng tôi cầu mong sao, nếu còn có những trường hợp tương tự như trường hợp của ông Tư trong câu chuyện kể trên, thì sớm đưọc điều chỉnh lại tình trạng và được đôi bên giải quyết một cách công bằng ổn thoả, để cho những người vợ hiền chung thuỷ, những người chồng gương mẫu, những người cha biết thương yêu con cái và những đứa con thơ dại, mau sớm được sum họp gia đình tại nơi phần đất tự do này.
|