Phương Nam, Ánh Sao Nơi Cuối Trời, Tháng 4-1975 (Phần 1) |
Tác Giả: Cựu MX Lâm Tài Thạnh TĐ 9 TQLC | ||||||
Thứ Hai, 26 Tháng 3 Năm 2012 10:52 | ||||||
Đường đi khó, Không khó vì ngăn sông cách núi, Mà khó vì lòng người ngại núi e sông (Ng. Bá Học) Phần 1: Lệnh Triệt Thoái Bất Ngờ
Xin đừng hỏi vì sao, Tôi vẫn nhớ
Tuyến kháng cự, phòng thủ sau cùng của Tiểu Đoàn 9 TQLC là đại chủng viện thánh Phaolồ (thuộc nhà thờ Chánh Tòa Công Giáo Đà Nẳng ) nằm dọc theo bãi biển Mỹ Khê, Non Nước trong bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng đây là một kiến trúc kiên cố với những bức tường che chắn, vững chắc có thể hạn chế sự xuyên thủng của các loại vũ khí cá nhân, tạo sự an toàn tối thiểu cho các quân nhân đang sẳn sàng chiến đấu, vị trí nầy được liên kết với nhau bằng nhiều dãy nhà cao tầng, rất tiện lợi và hữu ích cho việc quan sát, phòng thủ, ngăn chận các đợt tiến công, trong cuộc trì hoãn chiến không cân sức nhưng cần thiết nầy. (Xin xem Trận chiến sau cùng của TĐ 9TQLC / ĐSST 2004. Tác giả Cựu ĐÚy Đoàn Văn Tịnh Trưởng Ban 3 / TĐ 9). Kể từ 11:30 sáng Ngày 29 Tháng 03 Năm 1975, mọi cố gắng liên lạc với Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 369 TQLC và các đơn vị yểm trợ, chỉ được trả lời bằng sự im lặng khó hiểu. Trong lúc đang di chuyển ngang qua một phi đạo cũ trong căn cứ Non Nước, tình cờ Tôi gặp Đ/Úy Trần Văn Hên là bạn cùng Khoá 17TĐ, Đại ĐộiTrưởng Đại Đội Duyên Hải thuộc Tiểu ĐoànYểm Trợ Thủy Bộ TQLC. Đ/Úy Hên là người nhận lệnh và có trọng trách thiết lập đầu cầu di tản, triệt thoái, v,v… (Trích thư của Đ/Úy Hên : Chiều ngày 26 tháng 3 năm 1975 nhận lệnh của Sư Đoàn, Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ chuẩn bị lập đầu cầu di tản cho các đơn vị TQLC tại bãi biển Non Nước vào sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975. ĐĐ Duyên Hải phụ trách an ninh bãi và phương tiện cấp cứu trên biển như áo phao, xuồng máy an toàn bải v..v..) (Tiểu Đoàn 9 hoàn toàn không biết về Lệnh HQ nầy). --- Cái gì --- ***. Im lặng trong khoảng một phút : --- Tây Đô đây Nam Hổ --- Tôi nghe --- Rất tiếc, lệnh trên không cho “ ủi bãi” lúc này, bạn ráng chờ đến tối, chúc may mắn. Không có sự lựa chọn nào khác, như dòng sông phải đổ ra biển, như cuộc tình khi không còn mộng đẹp ban đầu thì phải nói lời chia tay. Tôi đồng ý và khẳng định với hạm trưởng Hải Quân là TĐ9 TQLC sẽ giữ vững phòng tuyến cố thủ, chờ đợi đến giờ hẹn. Tôi cũng yêu cầu hạm trưởng Hải Quân giữ liên lạc thường xuyên với Một cảm nhận chua chát, cay đắng đè nặng lồng ngực, khi nghe lời chúc may mắn lần thứ hai trong ngày, từ hạm trưởng Hải Quân. Liệu có chiếc đũa thần nào, phép lạ nào mang lại may mắn cho cùng một lúc hơn 700 trăm chiến sĩ đang trong tuyệt tử lộ, với sự lạnh lùng, quên lãng như các cơn sóng vô tình không cảm xúc, đang đập vào bờ, cuốn trôi theo toàn bộ những gì đã bị bỏ lại, dọc theo bãi biển Mỹ Khê, kể cả những thân xác con người bất hạnh, nằm rải rác hay đang trôi nổi bồng bềnh ngoài biển khơi. Thật tội nghiệp, họ cũng chỉ là những con người bình thường, cũng “tham sanh húy tử ” như mọi con người khác, nhưng lúc nào cũng cố gắng thi hành “quân lệnh” đến khi biết, họ chỉ là những “con chốt chậm chân” trong ván cờ “báo tử thiếu hồi chuông” họ tìm sanh lộ, trong hy vọng tìm một lối về, đoàn tụ gia đình tổ ấm, với nắng đẹp phương Nam, tiếc thay sự may mắn đã không đến với họ. Tiếng kèn truy điệu, lá cờ của tổ quốc thân yêu, mãi mãi là “món nợ muôn đời” không thể trả, cho những “anh hùng vô danh” đã chết vào những giờ phút sau cùng của cuộc chiến. Báo cáo nào? Quân sử nào? sẽ ghi lại toàn bộ sự “lạnh lùng, tàn nhẫn của chiến tranh đây”. Hồn tử sĩ gió ù ù thổi Sau vài phút suy nghĩ, Tôi tự lấy máy liên lạc nội bộ, đứng riêng ra một góc, không quá gần các quân nhân trong ban chỉ huy Tiểu Đoàn. Tôi không muốn những đối thoại, trao đổi giữa Tôi và Th/ Tá Lộc TĐPhó sẽ làm cho tinh thần quân nhân dưới quyền bị giao động. Tôi kể lại cuộc đối thoại giữa Tôi và Th/ Tá Hợp TĐ 2 cũng như lời hứa của Hải Quân…!! Chúng ta không thể kỳ vọng vào lời hứa của họ. Chúng ta phải tự lo liệu mà cứu lấy đơn vị!! Tôi kết luận và nói với Th/ Tá Lộc về kế hoạch “tự cứu” như sau : ĐĐ 3 dưới sự điều động của TĐPhó Lộc phải đổi hướng di chuyển, khi đi đến các xóm nhà có đông dân cư hành nghề đi biển, dọc theo con sông Hàn, bằng bất cứ giá nào, kể cả dùng “vũ lực ” thu, gom tất cả các phương tiện ghe, xuồng dùng vào việc đi biển và nếu cần thiết, bắt giữ luôn các ngư dân biết xử dụng các phương tiện đó, rồi xuôi theo nhánh sông Hàn ra điểm hẹn gặp. Tôi tại tọa độ X. Th / Tá Lộc cho biết: hiện nay ĐĐ3 đang bị quấy rối bắn tỉa bởi bọn đặc công Cộng Sản nằm vùng và du kích địa phương đang bám sát, dẩn đường cho quân chánh quy Bắc Việt truy kích. Anh còn cho biết thêm, qua tin tức của dân chúng chạy loạn, Thành Phố Đà Nẳng đã hoàn toàn bỏ ngỏ, toàn bộ các đơn vị của Quân Khu 1 đã “tan hàng” lúc giữa trưa mà chẳng có “trận đánh giữ sĩ diện nào được thực hiện” ngoại trừ 2 cánh quân còn đội hình và sẵn sàng tác chiến của Tiểu Đoàn 9 TQLC. Anh hoàn toàn đồng ý với kế hoạch Tôi đề xướng và sẽ cho Đại Đội 3 thi hành ngay lập tức. (--- Thiếu tá Lâm tài Thạnh, Tiểu Đoàn Trưởng/ TĐ9 TQLC người anh cả của đơn vị, cho tập hợp từ Tiểu Đội Trưởng trở lên nói những lời chân tình trước thuộc cấp --- tôi không bỏ đơn vị được, giờ phút nầy tôi và các anh em hãy tự lo liệu ! (Trích thư của Tr / Úy Lưu minh Quan). Trong bóng chiều, ánh nắng cuối ngày, tắt dần về hướng Tây, mặt trời còn chút màu đỏ ráng, chiếu các tia nắng sau cùng trên các hàng cây nhấp nhô, mênh mông như một biển máu đang chờ đợi những con người “chí không nản, lòng không sờn” dù biết niềm tin khó thành hiện thực, khi dỏi mắt nhìn theo hình dạng các con tàu, xa dần nơi biển khơi. Tôi thật sự nát lòng, khi ra lệnh phá hủy máy truyền tin PRC79, phương tiện còn lại duy nhất có thể liên lạc tầm xa với thế giới tự do, vùng đất quê mẹ phương Nam, nơi đã sản sinh, nuôi dưởng, đào tạo Tôi nên người, để có một vị trí chỉ huy như hôm nay; đó cũng là nơi chan chứa những yêu thương vô vàn gắn bó, ràng buộc của Mẹ, Cha, Anh, Em, Bè bạn, của tình Chồng, nghĩa Vợ, của tiếng cười, khóc vô tư, hồn nhiên con trẻ. Nay mọi thứ đã bị cuốn trôi theo “cơn hồng thủy nghiệt ngã nầy” trong nổi nghẹn ngào, uất ức của những chứng nhân bất đắc dĩ. Cuối cùng Tiểu Đoàn 9 TQLC đã không hoàn tất được cả 2 kế hoạch lui binh triệt thoái của chính đơn vị và của mình. (Riêng Tiểu Đoàn 9 TQLC vì phải bảo vệ cho 2 Tiểu Đoàn 2 và 6 rút nên bị địch tấn công, sau cùng bị kẹt lại trên bờ. **Trích “ Can trường trong chiến bại ” của phó đề đốc HVKỳ Thoại. Trang 271 dòng 18 - 20 ** ) Toàn thể chúng tôi trở thành tù binh của lực lượng võ trang Tỉnh Đội Quảng Nam Đà Nẵng rạng sáng Ngày 30 Tháng 3 Năm 1975 . (**Trích thư của cựu Tr/úy Lưu minh Quan Cựu ĐĐT / ĐĐ1 / TĐ 9: Bãi biển Mỹ khê, địa danh mà tôi phải ghi nhớ trong đời. .Trời càng tối, đêm hôm ấy tôi, Tây Đô (Th/tá Thạnh), Tân an (Đ/Úy Tịnh) Phú sĩ (Đ/ Úy Phán) phải luồn lách trong những đám rau lang và cây chuối để tìm lối ra lại TP Đà Nẵng hơn 1 giờ sáng thì bị du kích bắt giữ**). (**Trích thư T/ Úy Trương phước Dĩnh, Sĩ quan truyền tin TĐ9: Em có nhớ một chi tiết, xin nhắc anh, xem anh còn nhớ không, sự việc xảy ra chỉ có anh, Đ /úy Tịnh, truyền tin mang máy và tài xế của anh, việc xẩy ra trên đường trở về, sau khi anh xuống Lữ Đoàn 369 họp (Thứ Tư 26 tháng 3 năm 1975) có một con mễn (con mang) chận đầu xe của anh, sau này nghiệm lại thấy trùng hợp với câu người đời thường nói “ mễn (mang) lạc, nát làng” chỉ vài ngày sau Tiểu Đoàn mình tan hàng **) –(-Ghi chú : Sáng Ngày 28 Tháng 03 Năm 1975 T / Úy Trương phước Dĩnh, Sĩ quan truyền tin của TĐ9 nguyên quán ở Hội An, được Tôi cho đi phép để xem tình hình gia đình, cha, mẹ ra sao, không ngờ bất thình lình, lệnh tử thủ trong phiên họp 26 Tháng 03 Năm 1975 bị hủy bỏ, với lệnh mới TĐ9 TQLC phải cho phá hủy đạn dược dự trữ, cấp tốc di chuyển lúc 1130 tối Ngày 28 Tháng 3 Năm 1975 để về phòng thủ giữ Đà Nẵng. Sau cùng T/Úy Dĩnh may mắn lội ra biển, lên được tàu HQ với TĐ2 TQLC trong ngày 29 / 3 / 1975 ). Hết Phần 1.
|