Phương Nam, Ánh Sao Nơi Cuối Trời, Tháng 4-1975 (Phần 2) |
Tác Giả: Cựu MX Lâm Tài Thạnh TĐ 9 TQLC | |||||
Thứ Ba, 27 Tháng 3 Năm 2012 06:33 | |||||
Tiếng gà gáy sáng, văng vẳng bên ngoài, báo hiệu một ngày mới với những bất trắc, rủi ro không lường trước, đang chờ đợi kẻ chiến bại trong tức tưởi, xen lẩn cay đắng. Phương Nam, Ánh Sao Nơi Cuối Trời, Tháng 4-1975, Phần 2: Tiếng gà gáy sáng, văng vẳng bên ngoài, báo hiệu một ngày mới với những bất trắc, rủi ro không lường trước, đang chờ đợi kẻ chiến bại trong tức tưởi, xen lẩn cay đắng. Những người mới hôm qua đây, còn là một đoàn binh kiêu hùng với tinh thần chiến đấu cao độ, vũ khí đạn dược còn đủ, để giáng trả kẻ thù những đòn sấm sét và chận bước chúng như đã từng làm trước đây, thế mà bổng chốc trở thành kẻ trắng tay trong một cuộc triệt thoái, lui binh, thật sự không có trong binh pháp. Dưới ánh sáng chiếu le lói qua các khung cửa sổ Tôi chăm chú nhìn vào mặt dạ quang của cái đồng hồ Seiko 5, tài sản duy nhất còn sót lại, sau khi bị bắt rạng sáng hôm nay, nhờ bọn du kích chủ yếu tìm vũ khí nên không lục soát kỹ, 06:00 giờ sáng, cảm giác thiếu vắng ly cà phê và điếu thuốc đầu ngày khiến Tôi bức rức, khó chịu. Tôi không cảm thấy mệt mỏi, dù gần như thức trắng, trong khoảng thời gian chờ đợi sáng, thức đêm mới biết đêm dài, bao nhiêu suy tư lẩn lộn, cứ nhảy múa lung tung trong đầu óc, kể cả từ trong tiềm thức. Tôi chợt nhớ đến trong khoảng năm 1961 - 1962 Tôi có được xem một phim chiến tranh thời Đệ nhị thế chiến với tựa đề: Dunkirk evacuation (Cuộc di tản triệt thoái ở Dunkirk / Dukerque) nội dung kể lại cuộc di tản các đoàn quân Đồng Minh gồm Anh, Pháp và Nam Tư tại bải biển Dukerque nước Pháp, trước viển ảnh bị quân Đức bao vây và tiêu diệt. Lệnh di tản do chính Thủ tướng Anh lúc bấy giờ là Sir Winton Churchill ban hành Dưới sự yểm trợ tối đa hỏa lực của hải pháo và không lực Hoàng Gia Anh, sau 9 ngày (trong khi chỉ trong 9 Ngày Quân Đoàn 1 VNCH hoàn toàn bị xóa sổ) đã di tản được tổng số 338.226 quân nhân của Anh, Pháp : The next day, the BBC reported, Major-General Harold Alexander (the commander of the rearguard “chỉ huy trưởng quân đoạn hậu”) inspected the sho res of Dunkirk from a motorboat this morning to make sure no-one was left behind before boarding the last ship back to Britain (Trích tài liệu từ trang web Wikipedia).
Tiếng vo ve của những con muỗi lượn quanh, đang cố gắng tìm mồi trước khi bình minh rọi sáng giúp Tôi trở về thực tế. Tôi nhìn quanh căn phòng nhỏ hẹp đang dùng làm nơi tạm giam giữ tù binh. Tôi biết đây là một lớp học của một Trường Tiểu học VNCH nằm trong khu vực Non Nước, hiện nay có khoảng 40 quân nhân cùng chung số phận “bị bỏ rơi”, hơn phân nửa là TQLC, trong số nầy có người mặc quần áo dân sự, có người mặc quần trận áo thun hay áo trận quần ngắn, những khuôn mặt thất thần, mệt mỏi, lo lắng với các ánh mắt dò hỏi, ngần ngại không biết phải xưng hô như thế nào cho phải lẽ, bởi sự thay đổi đến quá bất ngờ như trong giấc mộng, tiếng chắc lưỡi, thở dài cho sự thiếu may mắn, chậm chưn, bên cạnh cũng không thiếu vắng những tiếng chưởi thề để giải tỏa sự bực tức. Tôi thông cảm và hiểu được vì các quân nhân ấy cũng chỉ là những con người bình thường với hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục, nay bổng nhiên mất hết tự do và mạng sống đang bị de dọa trầm trọng. Tiếng hỏi thì thầm khe khẽ của một quân nhân: Ông Thầy bây giờ tính làm sao? Không biết tụi nó đối xử với mình như thế nào Thiếu tá; tụi nó xem mình là tù binh hay hàng binh, Ông Thầy? cách xưng hô bất nhất cho thấy sự kích động, chứa đựng sự âu như thế nầy là điều dễ hiểu. Tôi nhìn thẳng vào mặt người quân nhân đang mặc áo thun, quần trận và chậm rãi nói lớn cho mọi người cùng nghe: Em đừng có quá lo lắng, chúng ta vẫn còn Chính Phủ, còn Sài Gòn, còn Vùng 3 và 4, còn hiệp định ngưng bắn Paris 1973 thì thế nào Quốc Tế và người Mỹ cũng phải lên tiếng can thiệp, để ngưng bắn và trao trả tù binh, phải giữ vững tinh thần, chịu đựng những khó khăn, thiệt thòi hiện nay, cũng như luôn cầu nguyện theo tôn giáo của em. Sau câu nói của Tôi, tình hình trong phòng giảm bớt sự căng thẳng. Riêng Tôi tự hỏi: có phải đây là một câu nói để tự an ủi, trấn an cho chính mình? Từ phía cuối phòng, khi ánh sáng còn chưa đủ để nhận diện là ai, một người đến sát bên Tôi và nói nhỏ: Thiếu Tá hãy thay bộ đồ nầy, cho đỡ nguy hiểm. Tôi nhìn các thứ đang nằm trên tay của B1 Phụng (cần vụ) đó là một cái áo gió loại mỏng và một cái quần jeans. Tôi buộc miệng hỏi: Phụng hả? Sao cũng ở đây? Làm sao mà có các thứ nầy? Phụng cho biết: khi TĐ9 vào trong chủng viện, lúc Tôi đang lo điều động việc bố trí phòng thủ, Phụng nhận thấy tình hình quá nguy cấp, khó thể thoát thân, Phụng đã đi xin quần áo dân sự, từ các nhóm người tản cư vì chiến loạn đang tá túc trong chủng viện, phòng khi cần đến cho Tôi. Tôi cầm lấy những vật dụng có thể giúp Tôi tạm thời không còn là cái gai trong mắt của những kẻ đang chiến thắng trong “ngạc nhiên và bất ngờ”. Tôi nói tiếng cám ơn trong cảm động, bùi ngùi gần rơi lệ. Tôi nghiệm ra một điều, có lẽ trước đây Tôi chưa cảm nhận được, đó là trong cuộc sống của 11 năm quân ngủ, bên cạnh những con người chỉ biết có lợi ích của bản thân (khi mâm tiệc còn đủ món ngon, vật lạ thì chiếu trên, chiếu dưới giành nhau công trạng nhưng đến khi tiệc tàn, rượu hết, bình vơi, chỉ còn lại xương xẩu, khó ăn, khó nuốt, thì đến lời nói ủi an cũng chẳng màng) vẫn còn có những tấmlòng chân chất, trung thực, dễ thương; tặng phẩm bất ngờ của B1 Phụng trong một đổi đời, lúc mà, chưa ai biết được số mệnh sẽ đi về đâu là biểu trưng vô giá cho tình chiến hữu, sống chết có nhau, hoạn nạn cùng chia sẻ với một ý tưởng đơn giản duy nhất, giúp ngụy trang phần nào lai lịch, nhằm che chắn cho sinh mạng, đang bị nhiều đe dọa của Tôi, trong lúc Tôi chỉ còn là con số không vô giá trị. Ôi thật cao quý cho nghĩa cử tương thân, tương ái nầy, bây giờ Tôi mới thấu hiểu sâu sắc câu nói của người xưa: Trong nghèo khổ mới biết ai là người con hiếu thảo. Lúc đất nước lâm nguy mới biết ai là trung thần (Gia bần tri hiếu tử. Quốc loạn thức trung thần). Tôi tự hỏi với chính mình: biết đâu, trong quá khứ B1 Phụng đã từng bị Tôi quở trách vì một lổi lầm nào đó, thế mà bây giờ trong hoàn cảnh “tù binh” giống nhau, thế thì điều gì đã khiến Phụng còn lo lắng cho Tôi đến giờ nầy? Phải chăng đó là “tình người cao cả”? . Tiếng động mở dây xích dùng để khóa cửa phòng giam, mọi người ngưng nói chuyện. Tôi nhìn đồng hồ 07:00 giờ sáng của Ngày 30 Tháng 03 Năm 1975, trong im lặng chờ đợi, hai người có dáng dấp trung bình, quần áo dân sự bình thường với vũ khí trên tay là 1 AK47 và 1 K54 bước vào phòng, đứng cách xa chúng tôi khoảng 3 thước, một người có dáng vẻ là chỉ huy lên tiếng trong âm ngữ miền Trung khó nghe, thông báo là Cách mạng đã thành công v…v…; sau vài phút khoát lác, khoe khoan thành tích, đột nhiên hắn ngưng lại: Trong các ông có ai là sĩ quan không? Bất chợt hắn buông ra câu hỏi và im lặng chờ đợi. Tôi quyết định thật nhanh và lên tiếng: Có ; trước các khuôn mặt đầy căng thẳng, lo lắng của mọi quân nhân trong phòng (khi bị bắt giải về Trường học Tôi đã lạc mất Đ/úyTịnh, Đ/úy Phán và Tr/ Úy Quan) . .- Quân hàm của Ông là gì? Tôi chẳng hiểu hắn hỏi điều gì, nên chưa trả lời. Tên cùng đi có lẽ là “ nằm vùng, hoạt động nội thành” thấy thế liền lên tiếng: Cấp bậc của Anh là gì? Tôi trả lời: Thiếu Tá. Cả hai cùng nhìn nhau và tên kia hỏi tiếp: Cấp chức của Ông? Tôi trả lời trước khi tên kia diển dịch: Tôi không biết chữ cấp chức Ông dùng là gì nhưng chức vụ của Tôi là Tiểu Đoàn Trưởng. Phiên hiệu của đơn vị Ông? Tôi lại “chới với” vì chẳng biết phiên hiệu là cái giống gì !! Tên nằm vùng lập lại câu hỏi: Anh thuộc quân binh chủng nào của Sài gòn? Tôi trả lời Thủy Quân Lục Chiến. Khi nghe Tôi trả lời, hắn nói ngay với tên có vẻ là chỉ huy Anh ta là Lính Thủy đánh bộ. Tên chỉ huy phán ngay một câu: Bọn lính ngoan cố, ác ôn đấy à!!!Tôi không trả lời nhưng cảm thấy tim đập nhanh hơn, một ý nghỉ thoáng qua: Không lẽ hôm nay là ngày cuối cùng của đời mình !! Những hình ảnh thãm sát kinh hoàng trong Tết Mậu thân 1968 tại Huế, chợt trở về trong trí nhớ. Tôi tự nhủ với chính mình – phải tìm cách thoát thân bằng mọi giá dù phải đánh đổi mạng sống - . --- Còn ai là sĩ quan trong phòng nầy không ? Mọi người cùng im lặng. Tên chỉ huy nói thêm vài điều quy định nơi giam giữ cũng như hứa sẽ có người mang nước uống, thực phẫm đến cho tù binh. --- Anh đi theo chúng tôi. Tên chỉ huy nói và ra hiệu cho tên mang AK47 tiến về phía Tôi, áp giải Tôi ra khỏi phòng, trong những tiếng chất vấn của B1 Phụng và một số quân nhân khác thuộc TĐ9TQLC . Tôi bước ra ngoài, cửa phòng giam đóng, khóa lại, luồng gió mát của không khí trong lành buổi sáng giúp Tôi thấy dễ chịu, sự tự do thong thả không còn bị giam giữ trong bốn bức tường dù chỉ tạm bợ trong chốc lát cũng cho Tôi thêm nghị lực và sẳn sàng đối phó với tình huống xấu. Nhìn một lượt quang cảnh chung quanh, Tôi thấy có khoảng 8 – 10 Lớp học được dùng làm nơi tạm giam giữ tù binh, các du kích địa phương bao gồm đàn ông lẩn đàn bà tới lui chuyện trò ồn ào, khoe khoan thành tích cũng như các loại vũ khí chúng thu gom được dọc theo bải biển Mỹ Khê Non Nước, chúng xưng hô với nhau: anh Tư, chị Sáu, chú Mười trong sự đắc chí, hả hê, nghe mà nóng mặt, Tôi tự nhủ lòng: ngày nào có cơ hội trở lại đây thì chắc là giết lầm hơn bỏ sót.… Phải quyết định nhanh, trước khi chúng nổ súng, bắn sau lưng mình. Tôi đi chậm bước và xoay người lại khi đang hướng về lớp học nằm cuối dãy. Tôi hỏi tên nằm vùng: -- Có thuốc hút cho Tôi một điếu? Cả 2 tên dừng lại, tên chỉ huy hỏi: Có hút được thuốc lá cẩm lệ không? --- Tôi lắc đầu, vừa tính lợi dụng sự chểnh mảng của bọn chúng khi đang nói chuyện để “liều mạng cướp súng” thì tên chỉ huy nói tiếp đồng chí chủ tịch ủy ban quân quản, bảo phải “ cách ly” các sĩ quan, để chiều nay giao lại cho bộ đội Sư 304. (Sư đoàn 304 Bắc Việt ).Tôi thở phào nhẹ nhõm, như thế là chưa tàn đời, đến lớp học cuối cùng, chúng giam Tôi vào trong đó, bỏ đi sau khi hứa sẽ có người mang cơm, nước đến cho Tôi . Tù binh tại Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 3 VNCH Trại Hoà Cầm.- Qua hai mươi bốn tiếng đồng hồ đầy căng thẳng, xen lẩn các câu tự hỏi mà không có câu trả lời. Tôi ngã lưng, nằm dài trên chiếc bàn học sinh, sau khi bao tử tạm ổn với 1 vắt cơm có con cá khô nhỏ và ca nhựa nước .!! Làm sao có thể tin được các lời nói của tên Việt Cộng có vẻ là chỉ huy? Hắn nói để cho Tôi yên tâm “ chờ chết ” hay như thế nào? Họ có áp dụng “đúng đắn quy chế Geneve về tù binh” hay không? Phần quân ta liệu có còn cơ hội phản công hay không? Tôi rơi vào giấc ngủ ngắn, buổi trưa với tâm tư xốn xang, bồn chồn. Đột nhiên những âm thanh vang dội của các loại xe vận tải lớn, ầm ỉ bên ngoài lớp học khiến Tôi giật mình tỉnh giấc, tiếp theo là những tiếng quát tháo, thúc dục, dọa nạt với giọng nói sặc mùi Bắc Việt, tiếng lên cơ bẩm các loại súng cá nhân, tiếng chân người chạy tới lui các dãy phòng lớp học, tiếng loa cầm tay nghe rõ ràng với lệnh là tất cả các tù binh ra khỏi phòng, tập trung ở sân trường Tôi đoán biết là quân chánh quy Bắc Việt đã tới để áp giải tù binh. Tôi cảm thấy an tâm phần nào, vì dù sao với một số lượng tù binh đông đảo, cũng như giữa buổi trưa như thế này thì chắc chắn họ không thể “ thủ tiêu ” tù binh được. Tôi nhìn đồng hồ 2 giờ chiều Ngày 30 Tháng 3 Năm 1975. Tiếng mở cửa phòng với sự xuất hiện trở lại của tên có vẻ là chỉ huy của lực lượng điạ phương đã bắt Tôi . -- Anh ra ngoài và “khẩn trương chuẩn bị hành quân đi về Trại giam. Chúng tôi đã hoàn thành công tác bước đầu v…” Tôi muốn bật cười ra tiếng, vì cái lối nói nghe trái tai, ngộ nghĩnh của hắn. Tôi vừa bước ra sân cũng là lúc các tên lính Bắc Việt mặt mũi non choẹt (khoảng 16 – 18 tuổi) đang đi tới, đi lui nhắc nhở các quy định trên đường “hành quân về trại tù binh ” và --- Anh nào cố tình làm sai quy định sẽ bị xử lý ngay ---. Thấp thoáng ở đầu sân trường Tôi nhìn thấy hình dáng của Phán, Tịnh và Quan. Khoảng gần 3 giờ chiều, đoàn tù binh bắt đầu rời khu vực Mỹ Khê Non Nước, trong sự bố trí canh giữ, nghiêm ngặt của nhiều đơn vị chánh quy quân Bắc Việt. Trong 30 năm của đời sống, chưa bao giờ Tôi cảm nhận được sự nhục nhã đến ê chề, tủi thẹn đến tê tái cả người, khi bị dẫn giải qua những khu phố của TP Đà Nẵng, trước hàng đoàn người dân, đứng dọc theo lộ trình tù binh đi qua với những lời bàn tán khen, chê, chỉ chỏ, cười đùa, có kẻ còn thốt ra những lời chướng tai, ngụ ý cho đáng đời lính ác ôn tuy nhiên cũng có những ánh mắt đỏ hoe ái ngại, lặng lẽ quay mặt, che dấu những giòng lệ thương cảm cho thân phận “ cá chậu, chim lồng ” trong đó có cả thân nhân của họ. Tôi không trách những con người vô tình, thiếu sự hiểu biết, trong hoàn cảnh gió chiều nào, che chiều ấy của buổi giao thời với những bất chợt thay đổi trong nghiệt ngã và không tưởng ; có trách chăng là trách chính chúng tôi những người với các mỹ từ đẹp đẻ là chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã không vuông tròn trách nhiệm bảo quốc, an dân, để mất đi một phần lãnh thổ của Miền Nam trong tinh thần chủ bại và hổn loạn. Quân sử nào sẽ ghi lại đầy đủ nổi đau thương, mất mát không đáng có và nhục nhả nầy? Đoàn tù binh cuối cùng được đưa vào giam giữ ở Trại Hòa Cầm, đây là nơi trú đóng của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh VNCH, các dãy doanh trại hầu như đều còn nguyên vẹn ngoại trừ một vài chổ có khói nhỏ bốc lên do việc thiêu hủy hồ sơ. Sau khi tất cả tù binh đã vào bên trong, ở 2 cổng ra vào, được ngăn chận lại bởi các cuộn dây kẽm gai khoanh tròn (concertina) với một vài lính chánh quy mang súng AK47 đứng gác, các thành phần áp giải lần lượt rút đi. Trong khu vực rộng lớn của doanh trại cũ, các tù binh bắt đầu thoải mái đi tìm bạn bè cùng đơn vị, tiếng gọi trong ngạc nhiên, tiếng cười trong mừng rỡ khi gặp lại nhau để biết rằng bản thân và những người quen biết vẫn còn sống.Tôi ước tính có vào khoảng 4,000 – 5,000 tù binh đủ các quân binh chủng bị giam giữ tại đây. Gần 6 giờ chiều thì Tôi gặp lại hầu hết các sĩ quan đầu não thuộc TĐ9 gồm có Đ/ Úy Tịnh Tr Ban 3, Đ/Úy Phán ĐĐT/ĐĐ2, Tr/Úy Lưu minh Quan ĐĐT/ĐĐ1, Đ/Úy Lê hồng Quang ĐĐT/ĐĐCH, Tr/Úy Công ĐĐT/ĐĐ4, T/Úy Xuân Trưởng Ban 2 (phần Th / Tá Lộc TĐPhó và TR/Úy Ba ĐĐT/ĐĐ3 thì ngày hôm sau mới gặp lại nhau ở ngoài phố chợ Đà Nẵng ). Tiếng T/ Úy Xuân thì thầm bên tai Tôi, báo cho biết về sự canh phòng lỏng lẻo của bọn Việt cộng (Theo sự nhận xét của Tôi thì quân Bắc Việt hoàn toàn không quan tâm đến tình hình tù binh trong giai đoạn nầy, khi các cánh quân tiến công của họ chưa bao giờ gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân ta. Mọi nỗ lực và quan tâm của họ trong lúc nầy là “đánh lấy Sài gòn ”. Những chiến thắng bất ngờ đến với họ, qua các cuộc rút quân vội vã, không kế hoạch chu đáo của ta để rồi sau đó trở thành những thất bại mang tính hệ thống giây chuyền ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của mọi quân nhân ). Tôi nói với T/ Úy Xuân ngày mai chúng ta sẽ tìm cách trốn ra khỏi chồ nầy .Tôi hỏi Xuân có gặp hay thấy B1 Phụng hay không, Xuân cho biết không thấy. Tôi nghĩ có lẽ Phụng đã trốn được. Trong ánh sáng chập chờn của các ngọn đèn thiết lập chung quanh căn cứ, Tôi thầm nghĩ, thế là thêm một đêm dài sống trong suy tư với chập chùng vấn vương, thương nhớ. Ký ức chợt hiện về trong trí nhớ mới đây thôi, chưa đến 60 ngày, BCH / TĐ 9 đóng quân ở bải biển Mỹ Thủy, trong dịp Tết Nguyên Đán Ất Mão 1975 (11 / 2 / 1975 dịp nầy Th / Tướng, Tư Lệnh SĐ, có đến thăm TĐ9 và Pháo Đội C / TĐ1 PB của Tr / Úy Nguyễn văn Tuấn ) được sự chấp thuận của Sư Đoàn, Tôi đón gia đình từ Sài Gòn ra thăm, sau các ngày Xuân. Tôi xin phép Lữ Đoàn đưa gia đình đi Đà Nẵng để thăm cậu em của YT (Ng Chí Thiện Radio Bolsa, Nam California, cũng là anh của nghệ sĩ hài Chí Tài), lúc bấy giờ đang phục vụ ở Sư Đoàn 3 BB / Ban quân nhạc tại Trại Hòa Cầm nầy), trong vai trò của một sĩ quan trung cấp, Tôi được sự tiếp đón nghiêm chỉnh, lịch sự, hữu ích của toán quân cảnh gác cổng BTL / Sư Đoàn 3 BB, đã giúp cho việc thăm gặp dễ dàng và nhanh chóng. Thế mà nay, vật đổi sao dời, mọi chuyện thay đổi như trong giấc mơ, Tôi dõi mắt nhìn lên khoảng không gian vô tận trên cao với muôn vàn ánh sao lấp lánh, Tôi tự hỏi đâu là ngôi sao số mạng của mình, liệu nó có trở thành ánh sao băng quá sớm, trong giải ngân hà sáng chói, rực rỡ, ở tận cuối trời phương Nam và ngôi sao nào sẽ đưa lối, dẩn đuờng Tôi tìm về tổ ấm như ánh sáng nhiệm mầu của một thuở xa xưa, dẩn dắt con người đến với các Đấng thiêng liêng. Tôi thiếp đi, trong văng vẳng đâu đây tiếng gọi thương yêu của con trẻ cùng tiếng thở dài não ruột của thiếu phụ Nam sương . Phố chợ Đà Nẵng - May mắn lần thứ nhất. Ánh sáng ban mai rọi chiếu khắp nơi, báo hiệu một ngày mới bắt đầu trong sự ồn ào như ong vở tổ, khi toàn thể tù binh trở dậy, sau một giấc ngủ không trọn vẹn. Mọi người tụ tập thành từng nhóm theo đơn vị cũ hay bạn bè quen biết. Mối quan tâm chung của tất cả tù binh là: Việc gì sẽ xãy ra trong ngày hôm nay? Số phận tù binh sẽ được giải quyết như thế nào? Vấn đề ẩm thực sẽ ra sao? v…v… Th/úy Xuân trở về sau khi đi thu thập tin tức tình hình (ám số chuyên nghiệp của B 2) cho biết, hiện nay chỉ có vài tên du kích đứng gác ngoài cổng. Tôi bảo Xuân: ban ngày lộ diện, khó trốn sự truy đuổi, nên cố gắng tiếp tục tìm lối thoát dọc theo hàng rào phòng thủ ở mặt trước của Trại (ít có nguy hiễm hơn bởi các bãi mìn xung quanh Trại). Không ngờ sự may mắn đầu tiên đến với tù binh chúng tôi. Khoảng 11 giờ trưa, có một xe GMC chở đến 4 - 6 giỏ cần xé đựng cơm, cá khô. Sau khi chuyển giao các thứ hàng cho bọn du kích gác cổng (bọn lính chánh quy Bắc Việt đã rút đi trong đêm), xe tiếp tục chạy đi. Tù binh chúng tôi để ý, theo dỏi diển biến tại cổng gác, thấy mấy tên du kích tụ họp, bàn tán với nhau khoảng 10 phút, có 2 tên đi vào sát hàng rào ngăn cách, thông báo tù binh cho người ra nhận các giỏ cơm, tù binh bắt đầu lớn tiếng chất vấn tại sao số lượng tù binh thì nhiều mà chỉ có mấy giỏ cơm thì làm sao cho đủ…v…v, tiếng náo động phản đối, càng lúc càng to nghe vang rền cả khu vực. Bọn du kích canh giữ, không biết phải xử trí như thế nào trước làn sóng la hét phản đối của tù binh. Sau cùng cả toán du kích lẳng lặng kéo nhau bỏ đi mà không có bất cứ phản ứng gì ; thế là tất cả tù binh cũng tự động tan hàng theo sở thích từng nhóm hay đơn vị cũ. (Thứ hai 31 / 3 / 1975 ). Hội tụ và may mắn lần thứ hai .- Nhóm chúng tôi khi rời khỏi Trại giam giữ Hòa Cầm, hướng về phố chợ Đà Nẵng gồm có: Tôi, Tịnh, Phán, Xuân Quan, cùng một số quân nhân TĐ9 khác. Trên đường đi vì cần có tiền để xử dụng, khi mọi sinh hoạt của Đà Nẵng còn tương đối bình thường với sự lo lắng, e ngại của những người dân trong một thành phố mới bị chiếm đóng. Tôi phải bán đi chiếc đồng hồ Seiko 5 và Phán phải bán sợi dây chuyền mang trên cổ, cũng may không bị những người mua ép giá, cho nên có tiền chia nhau xài tạm (ký ức của Phán và Xuân). Ly cà phê đen đá và tô mì quảng đầu tiên sau 36 tiếng đồng hồ làm thân tù binh với những lo lắng “chết người” đã được mọi người trong nhóm tận tình chiếu cố . Tôi thả hồn theo làn khói thuốc lá mỏng (Tôi vừa mua được gói thuốc lá Ruby quân tiếp vụ) được khéo léo nhả ra một cách chuyên nghiệp, cuộn tròn như hình chữ O đang quyện vòng, xoay quanh, nhảy nhót trước mặt, cố thoát sự kìm hãm để tan dần trong bầu không khí .Tôi tự nghĩ, “một vật thể vô tri như thế mà còn muốn có được sự tự do, huống chi là con người ”. Tôi lẩm bẩm nói với chính mình: Trốn, bằng mọi cách phải trốn, tìm đường về phương Nam!!!. Xuân xoay người hỏi Tôi: Anh Tư nói cái gì? Tôi trả lời: không có chi. Anh sẽ bàn thảo với mọi người sau nầy. Trên đường đi chúng tôi luôn tránh né những nơi mà từ xa, chúng tôi có thể thấy bóng dáng của bọn quân Bắc Việt (phân biệt qua quần áo) hay là bọn du kích, mặc dù việc chặn xét trên đường đi hầu như không có (.- theo nhận xét của Tôi, trong thời điểm nầy mọi hoạt động của thành phố Đà Nẵng chưa bị bọn “xâm chiếm” kiểm soát được hoàn toàn. Đúng nhất phải nói: “Đà Nẵng là của trên Trời rơi xuống” mà bọn Bắc bộ phủ chưa bao giờ nghĩ tới, đến khi “lượm được” cho vào túi mà chẳng biết phải làm gì!“ Sau khi mất Đà Nẵng, kể như quân lực VNCH đã mất hơn phân nửa lực lượng. Đáng buồn hơn nửa là khi sự tan rã xảy ra tại mặt trận miền Trung, thì chỉ riêng tại Quảng Trị, Huế và Đà Nẵng, quân lực VNCH đã có sẳn kho lương thực và đạn dược đủ để chiến đấu trong vòng ít ra là một năm. Trích trong: Cái chết của Nam Việt Nam. Tác giả Phạm kim Vinh. Trang 320 giòng 6 – 11 ”Khoảng 2 giờ chiều, chúng tôi có mặt tại các con phố chính của TP Đà nẵng như là: Đại lộ Độc Lập, đường Bạch Đằng (chạy dọc theo sông Hàn), đường Lý Thường Kiệt, đường Quang Trung…vv… Từ các con đường giao điểm nầy, những con người ngơ ngơ, ngác ngác, ăn mặc không giống ai, chỉ nhìn qua là biết “phe ta” do quần áo dân sự xin được, cái dài, cái ngắn, cái rộng, cái hẹp, lại thêm khi nói chuyện thì rõ ngay là dân gốc miền Nam. Mọi người cứ thế mà đi lên, đi xuống, rồi lại đụng đầu nhau ở một góc phố cũ vừa bước qua để : “Nhìn nhau nói chẳng nên lời. Lệ ứa tim đau nổi đoạn trường”. Tôi chợt nhớ có Tr/ Uý Phạm Minh Sơn (Không Quân chuyển về, phụ trách XLTV Ban 3 / TĐ9, khi Đ/Úy Tịnh từ LĐ 258 chưa thuyên chuyển vể TĐ9 và sau này làm phụ tá B3 cho Đại / Úy Tịnh, vốn là người nguyên quán Đà Nẵng ). Tôi nhắc về Sơn nhưng tiếc thay chẳng ai biết nhà của Sơn ở đâu trong TP Đà Nẵng. May mắn lại đến với chúng tôi khi chính hạ sĩ Thương (cần vụ) cho biết là có thân nhân quen biết ở Xóm đạo Thanh Bồ , Đà Nẵng nên sẵn lòng hướng dẫn chúng tôi về đó; cùng lúc ấy Đ/ Úy Hên gặp lại Tr/ Uý Quân (ĐĐ Bảo Toàn / TĐYTTB) cùng một quân nhân cũng có thân nhân, gần trong khu vực Xóm đạo; thế là chúng tôi cùng dẩn nhau về đấy; tuy nhiên khi về đến nơi, mới biết là “nhà trống người không” vì thân nhân quen biết của Thương và quân nhân trong ĐĐBT, đều đã bỏ nhà chạy “tỵ nạn” nơi khác, Quân và Thương phải đi hỏi thăm các người hàng xóm quen biết, sau cùng có được chìa khóa để vào nhà. Nhằm tránh sự “tò mò dòm ngó” của các người dân chung quanh, trong cảnh “tranh tối, tranh sáng” nầy, hơn nữa “cẩn tắc vô áy náy”, chúng tôi quyết định chia ra thành 2 nhóm ở 2 nơi riêng biệt, chỉ cách nhau một con đường. Chúng tôi tắm giặt thoải mái, ăn uống no đủ, nhờ vào các thực phẩm còn sót lại trong nhà. Sau đó mạnh ai nấy lăn ra ngũ bù, mọi phiền muộn, lo lắng, giờ đây tạm bỏ lại đâu đó trong ngăn kéo của thời gian, để tận hưởng cái hạnh phúc, khi biết mình vẫn còn sống và tự do dù trong vòng “kềm kẹp” của quân thù. (Hết phần 2)
|