Thư của một cựu sĩ quan không quân VN viết về kẻ phản bội Nguyễn Thành Trung |
Tác Giả: Một cựu SQKQ - VNCH | |||
Thứ Tư, 07 Tháng 4 Năm 2010 16:52 | |||
Xin đừng gọi chúng tôi là đồng đội Thật sự, tôi không muốn viết những dòng này, viết về sự thực của câu chuyện cũ, câu chuyện này được Nguyễn Thành Trung kể lại theo cách bịa đặt, nhiều tưởng tượng, có phần cổ xúy cho cá nhân, che lấp đi những sự thực mà tôi và nhiều người, trải qua một thời gian dài không muốn nói đến nữa, đó là sự phản bội, vong ân cái quá khứ mà ít nhiều gì cái quá khứ này đã nuôi dưỡng, dạy dỗ Nguyễn Thành Trung, trong hoàn cảnh côi cút, không nơi nương tựa thuở ấu thơ của Nguyễn Thành Trung. Bài viết này, không nhằm gửi đến Nguyễn Thành Trung, cũng không để đính chính với ký giả Mark, một ký giả Hoa Kỳ đã phỏng vấn NTT tại Saigon, về những điều lệch lạc, thiếu trung thực của NTT đã nói với Mark. Tôi chỉ viết cho đồng đội của tôi, cho đồng bào tôi đọc, riêng cá nhân NTT, với luận điệu thiếu trung thực, thêm thắt bịa đặt trong cuộc nói chuyện với Mark, bài viết này không muốn những con người khoác lác, dối trá với chính mình như NTT được đọc nó. Vào khoảng tháng 04 năm 2000, qua một cuộc phỏng vấn của Mark McDonald, một ký giả Hoa Kỳ đã đến Sàigòn phỏng vấn NTT. Sau khi qua trở lại bên Hoa Kỳ, bài phỏng vấn này đã được đăng rộng rãi trên khắp Hoa Kỳ, cả trên mạng lưới thông tin điện toán toàn cầu. Nội dung bài, phản ảnh đầy đủ tất cả những gì NTT đã nói, không thêm bớt sửa chữa (tôi tin điều này bởi ký giả ở các xứ tự do rất ít khi thêm thắt, bịa đặt). Tôi và đồng đội của tôi, đồng bào của tôi, tất cả đều đã xem bài tường thuật này. Không ai thèm trả lời Mark, không ai thèm viết để đính chính với công luận ở đây, hoặc ở VN, hay bất cứ chỗ nào trên toàn thế giới này, về những điều ông nói thông qua Mark. Chúng tôi và mọi người đều cảm thấy vô bổ, mất thì giờ khi phải tranh luận, hay giải thích bất cứ điều gì với NTT và các đồng chí của ông ta, bởi thật mất công khi phải làm những điều này với những con người không còn biết sự thật, những con người hầu như cả cuộc đời chìm đắm trong u mê tưởng tượng, sống còn và thăng tiến bằng việc ăn gian nói dối, lừa phỉnh với đồng bào, cả với các đồng chí, và với chính bản thân của họ. Ði thẳng vào bài phỏng vấn được viết lại dưới dạng một loại tự thuật, nhân vật chính là NTT. Toàn thể bài tự thuật này có thể tóm gọn lại bằng câu kết luận sau cùng của NTT: “Tôi mến các đồng đội của tôi lắm, nhưng tôi không quan tâm gì về những điều họ nghĩ về tôi, việc tôi làm vào những ngày cuối tháng 04 năm 1975 duy nhất chỉ nhằm kết thúc cuộc chiến thê lương nhất của Việt Nam, nhiều sinh mạng hy sinh oan uổng, tôi có bổn phận phải kết thúc cuộc chiến này trong khả năng của mình, đem lại thanh bình cho đồng bào tôi, cũng là một việc làm báo thù cho cái chết của cha tôi bị chính quyền miền Nam sát hại.” Bỏ ra ngoài tất cả những đoạn viết trong bài được trinh thám hóa bằng cuộc đời mai ẩn của NTT trong giới học sinh, sinh viên Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi lưu ý tới câu này “được ăn học bằng sự nuôi dưỡng của chính quyên VNCH, rồi trà trộn vào hàng ngũ Không Quân VNCH, cuối cùng thi hành những mệnh lệnh của Việt cộng, phản bội lại tất cả những gì được thụ ơn, chịu nghĩa...” Tất cả các đoạn này kể lại không lớp lang thứ tự, nhiều chỗ mang tính cường điệu, anh hùng cá nhân, thậm chí khi kể về công việc chuyên môn của một người lái máy bay, nó cũng sai và thêm thắt, bịa đặt, hoàn toàn không phù hợp với những hiểu biết bình thường của một người biết lái máy bay. Như đã nói ở trên, người viết chỉ tóm gọn bài tự thuật này bằng phần kết thúc bài nói chuyện của NTT với ký giả Mark McDonald, và tôi chia phần này thành 2 vế: Vế thứ nhất: Mục đích của việc NTT oanh kích vào Dinh Ðộc Lập và dẫn dắt những nhân viên phi hành của Việt cộng về không tập Phi trường Tân Sơn Nhất , theo NTT nói là “nhằm kết thúc cuộc chiến thê lương nhất của Việt Nam”. Sự thật, như NTT và tất cả mọi người đều biết, cuộc chiến ở Việt Nam chẳng kết thúc sau ngày 30 tháng 04 năm 1975. Việt cộng đã lôi cuốn toàn dân Việt Nam vào một cuộc chiến khác, cuộc chiến mà hậu quả đã di hại không kém cuộc chiến ý thức hệ trước đấy. Nhiều trăm ngàn thanh niên Việt Nam, thế hệ đàn em, cả những thế hệ con, cháu chúng ta, tiếp tục bị xô đẩy vào cuộc chiến thê lương, tàn nhẫn này. Ðó là cuộc chiến ở các chiến trường Căm Bốt, Lào và cả phần biên thùy phía Bắc, tiếp giáp với Trung cộng. Chứng tích và hậu quả của cuộc chiến tranh này còn rõ rệt đến hôm nay với nhiều nghĩa địa, bạt ngàn bia mộ ở một số huyện lỵ của tỉnh Tây Ninh, Cao Bằng, Hà Tuyên, v.v. nơi chôn cất thi hài của những thế hệ sau chúng ta đã mạng vong oan uổng. Cả nước đã nhìn ra sự thực của câu nói: “Chiến thắng giặc Mỹ xong, ta sẽ xây dựng đất nước bằng năm, bằng mười ngày nay... ” của ai đó, đã lừa phỉnh hoặc trí trá với nhân dân mình, trong đó có cá nhân NTT! Hậu quả này còn kéo dài theo từng đoàn thương phế binh của cuộc chiến sau 30 tháng 04 năm 1975, xuất hiện nhan nhản khắp nẻo đường các thành phố lớn, chưa hết, dân Việt Nam chúng tôi còn gánh thêm cái món nợ tiền tệ, khí tài mà Việt cộng đã vay mượn các nước Xã Hội Chủ Nghĩa anh em, để tiến hành giấc mộng bá chủ bán đảo Ðông Dương, như Lê Duẩn và bè lũ thường huênh hoang khi còn sống. Cho đến tận hôm nay, hơn 25 năm, sau cuộc chiến ý thức hệ Việt Nam, nhiều chục ngàn thanh niên Việt Nam còn ngủ bờ, ngủ bụi bên Vương quốc Lào, nhiều trăm ngàn thanh niên khác phải gác bỏ chuyện học hành, chuyện phụng dưỡng cha mẹ già, dạy dỗ các em thơ để sung vào bộ đội, tiếp tục cuộc chiến do Việt cộng đang ôm ấp, chờ đợi khởi phát. Kết luận, những điều trình bày ở vế này là: Chiến tranh ở Việt Nam chưa hề chấm dứt kể từ sau tháng 04, 1975. NTT đã nói láo với ký giả Hoa Kỳ, nói không đúng với sự thật của Việt Nam, bóp méo đi sự thực mà NTT biết rất rõ. Việc NTT nói láo do tính chủ quan hay khách quan, do chính ông ta hay do chế độ Việt cộng ra lệnh, người viết không bàn ở đây. Vế thứ hai: Trong câu kết luận trong cuộc trao đổi giữa NTT với ký giả Mark là ông ta oanh kích vào dinh Ðộc Lập, và dẫn dắt Việt cộng về oanh kích vào phi trường Tân Sơn Nhất cũng để trả thù cho cái chết của thân phụ ông ta. Thân phụ của NTT, theo như lời ông ta giới thiệu khi mở đầu cuộc nói chuyện với ký giả Mark, là một du kích Việt cộng. NTT còn khoe là có đâu đó vài người anh trai cũng là du kích Việt cộng. Ở vế này, tôi phải dài dòng về thân phụ của ông ta trong vai trò du kích quân Việt cộng. Trước đây, nhân dân Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi biết rõ và cũng từng chứng kiến những vụ ám sát, thủ tiêu, khủng bố đẫm máu, của du kích Việt cộng nhắm vào hàng ngũ viên chức chính phủ, quân nhân của Việt Nam Cộng Hòa, và cả những người dân lành vô tội. Ðó là các vụ đặt chất nổ trong thành phố, gài mìn trên quốc lộ, đánh phá các Ấp Chiến Lược, và cao điểm của các hành động khát máu này là việc du kích VC tấn công vào rất nhiều bệnh viện ở các làng xã xa xôi, cướp bóc thuốc men, y cụ, đốt phá nhà thờ, chùa chiền... Sau này, quy mô tàn sát của Việt cộng to lớn và tàn ác hơn qua những hố chôn người tập thể ở Huế vào Tết Mậu Thân, pháo kích vào các thành phố, pháo kích cả vào các trường tiểu học v.v... Còn nhiều vụ nữa nhưng vì khuôn khổ hạn hẹp của bài viết này, người viết không thể kể hết ra được. Tất cả những hành động tàn ác này, Việt cộng và cụ thể là các tầng lớp du kích, nằm vùng, sớm đầu, tối đánh như thân phụ của NTT, đã gây ra trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi. Trước những hành động khát máu, mang tính phá hoại sự an ninh và thanh bình của Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, không cần phải là một thanh niên, dẫu chỉ là một người bình thường nào nhất trong một đất nước đang xây dựng và phát triển, ai cũng cảm thấy cần phải làm một cái gì để ngăn chặn những hành động sát nhân, phá hoại man rợ, thiếu tính người này, đồng thời để bảo vệ An ninh tối thiểu cho đồng bào, lương dân vô tội, bảo vệ các thành quả y tế, giáo dục, kinh tế, v.v. của đất nước có luật pháp và hiến pháp mà mình đang sống. Do vậy, việc thân phụ NTT phải đền tội do các tội ác mà ông ấy gây ra, như lời NTT thuật lại, công bình mà xét, không có gì là quá đáng. Tuy nhiên, NTT còn nói thêm, thân phụ ông bị xử bắn ngay trước mặt thân mẫu và chị em gì đó của NTT, sau đấy những người xử bắn còn kéo lê xác của thân phụ của NTT trên những con đường mòn của tỉnh Bến Tre... Người viết e rằng NTT đã bi thảm hóa thêm thắt tình tiết trong việc này. Dẫu sao, việc xử bắn những người gây tội ác với lương dân vô tội, phá rối trị an của Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi là việc cần làm trong một quốc gia có luật pháp và hiến pháp, điều này không cần bàn cãi thêm, cũng ví như dưới chế độ Việt cộng hiện nay, nhiều người bị xử bắn vì vi phạm những điều quy định do đảng Việt cộng ban hành. Việc cần xem xét và phân tích để xác định những điều NTT thêm thắt, tăng cường tính chất tàn ác của những người xử bắn thân phụ NTT, mà thâm ý của NTT muốn gán ghép cho cả chế độ và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi trước công luận, thông qua một anh ký giả nước ngoài. Chúng ta cùng xem xét và luận bàn việc này. Những dòng buộc phải viết cho Nguyễn Thành Trung và đồng bọn Cộng Sản Ông Nguyễn Thành Trung! Ông từng được ăn học dưới chế độ của chúng tôi, ông khoe với Mark, ông từng là sinh viên Ðại Học Khoa Học Sàigòn, thiết tưởng ít nhiều gì, ông cũng biết chút ít về pháp luật và hiến pháp của VNCH chúng tôi. Việc xử bắn một tội phạm nguy hiểm nào đấy, luôn luôn được thi hành theo luật pháp và hiến pháp đương thời, tiểu đội hành quyết, sau khi thi hành xong bản án, họ thường thông báo cho thân nhân của tội phạm đến để nhận thi hài của tội phạm về an táng. Trong trường hợp, không ai thừa nhận thi hài của tội phạm (cụ thể là trường hợp của thân phụ ông đấy), chính quyền sẽ tiến hành mai táng theo thủ tục bình thường, một phần vì luật pháp đã quy định, một phần để bảo đảm vệ sinh môi trường chung quanh. Những công việc này, thật sự được chu tất bởi tính pháp trị của một đất nước có hiến pháp và luật pháp. Không một cá nhân, tổ chức nào được quyền xâm phạm vào thi thể của tội phạm, cho dẫu kẻ tội phạm ấy khi còn sống, gây ra nhiều tội ác man rợ, gây nợ máu với nhiều người, như thân phụ của ông. Việc ông mô tả là ai đấy, đã lôi kéo xác của cha ông trên các con đường đất ở tỉnh Kiến Hòa năm xưa, xem ra không hợp với thực tế ở miền Nam. Nếu có ai đó, vì căm hờn thân phụ của ông, lúc sinh thời từng hãm hiếp vợ con của họ, ám sát thủ tiêu thân nhân của họ, gài mìn các chuyến xe đò, đặt chất nổ ở chợ búa, gây tử thương cho thân nhân đồng bào của họ, họ cũng chỉ oán hận cho đến khi pháp luật xử bắn cha ông là xong, chẳng ai có thì giờ để làm thêm cái việc vô ích, mất vệ sinh là lôi kéo cái xác bị bắn kia lê thê trên đường đất đâu đó. Hơn nữa, cơ quan pháp luật, nơi ban hành bản án tử hình cha ông, chắc chắn sẽ không dung tha cho những người làm các việc này đâu. Không phải vì họ thương xót gì thân phận của một gã du kích hèn nhát, khát máu kia đâu mà duy nhất bởi luật pháp không cho phép ai được làm như vậy. Còn việc ông cứ khư khư, cùng luận điệu như các đồng chí của ông, phủ nhận hiến pháp và luật pháp của Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, gán ghép các việc làm không có kia cho chế độ và chính quyền chúng tôi, thì quả ông và các đồng chí của ông có lệch lạc tư tưởng, mất lập trường khi nói lên điều đó. Tại sao, để có thể kết luận cái lập trường chao đảo của ông và các đồng chí của ông qua việc các ông phủ nhận hiến pháp và luật pháp của VNCH chúng tôi? Ðơn giản thôi, vì thật sự một đất nước vô hiến pháp, vô luật pháp, muốn bắn ai thì bắn, bắn xong muốn lôi kéo xác tội phạm đi đâu, làm gì thì làm, thì thật sự đó là một đất nước hỗn loạn, vô trật tự, vô tổ chức. Một đất nước như vậy, quân đội Việt cộng phải hy sinh trên một triệu sinh mạng, mất một thời gian trên 20 năm, vay mượn các nước “Xã Hội Chủ Nghĩa anh em” tiền tỉ tỉ để mua vũ khí và quân dụng, mới triệt hạ được thì e rằng cái quân đội Việt cộng kia quả bạc nhược và cái chiến thắng mà chúng có được là do cơ may, hên xui, chứ làm gì còn quân đội anh hùng, chiến thắng nghiêng trời lở đất như Bộ Chính Trị của ông thường rêu rao. Trong thời gian chúng tôi bị cầm giữ ở các trai tù cải tạo, có một vài đồng đội tôi vì không kham nổi sự cơ cực, đói rét, họ vượt ngục; công an, bộ đội truy lùng, đuổi theo và bắt lại được, trước khi sát hại anh em đồng đội chúng tôi, lũ người này đánh đấm, làm tất cả những gì có thể nói là tận cùng của sự dã man. Sau khi bắn đồng đội chúng tôi xong, họ không chôn cất như chúng tôi đã làm với thân phụ của ông, chúng tôi tự nhặt nhạnh thi thể của đồng đội, bó vào trong các bao bố bằng ny lông, dùng để đựng phân bón, chúng tôi cáng thi thể đồng đội chúng tôi trên một cái ky dùng để khiêng đất hàng ngày, đi chôn. Chúng tôi chẳng cần phải kể với ký giả Mark, hoặc kể lại với thân nhân, vợ con của đồng đội chúng tôi về những hành động này của người Việt cộng các ông, bởi chúng tôi chấp nhận sự trả thù tán tận lương tâm này của chúng, và tự xem cái chết của cá nhân mình, của đồng đội mình là sự hy sinh cần có cho chính thể và đồng bào Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi. Cứ bình tâm mà suy xét, ngay chính bản thân của ông, khi dẫn dắt Việt cộng vào oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất, thù ấy kể như đã trả xong, nhưng Việt cộng thì không dừng lại ở đấy, việc đày đọa các Quân Cán chính của VNCH trong các trại tập trung, cứ xem như để trả thêm mối thù cho cái chết của thân phụ ông, thế còn việc nhiều đồng bào vô tội khác, quanh năm họ chỉ buôn bán, làm việc bình thường như bao người bình thường khác trên thế giới, phút chốc mất nghiệp, mất nhà cửa, ruộng đất, công ăn việc làm, mất tất cả những gì của cuộc sống bình thường mà trước đấy, chúng tôi chiến đấu bảo vệ cho họ. Nhiều thanh thiếu niên khác của miền Nam Việt Nam chúng tôi, phút chốc họ bị lôi ra khỏi gia đình, học đường, lôi khỏi tuổi Xuân, để bị xô đẩy vào các lò lửa chiến cuộc do Việt cộng chủ xướng... Chẳng lẽ cũng vì cái chết của thân phụ ông mà Việt cộng ưu ái trả thù cho ông chăng?... Ngay lúc này, khi những dòng này đang viết, Tổ Chức Nhi Ðồng Liên Hiệp Quốc có đưa ra các báo cáo trước công luận thế giới về mức độ lợi dụng trẻ em tuổi vị thành niên trong lao động và sản xuất của Việt Nam, và còn phải kể đến việc không ít các em trở thành phương tiện mua dâm của những con dã thú đến từ Hương Cảng, Mã Lai, và nhiều nước khác nữa khi đến Việt Nam du lịch, hẳn các em bé ngây thơ vô tội này cũng đón nhận mối thù của ông thanh toán cho cái chết của thân phụ ông?... Rộng lớn hơn, hẳn tất cả đồng bào Việt Nam từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau đang đói rét, lầm than, tha phương cầu thực ngay trên chính quê hương xứ sở của mình, bị các tầng lớp công an, viên chức Việt cộng hà hiếp, đàn áp, bóc lột, họ bị như vậy vì cái mối thù của ông hẳn?... Chúng tôi, những người vì lý do này hay vì lý do khác, tất cả đều phải bỏ Việt Nam ra đi, chúng tôi có những mối thâm thù với Việt cộng, hầu hết những người Việt Nam ở hải ngoại hiện nay, đều có người thân bị tử vong vì sự trả thù cuồng dại của Việt cộng, nếu không thì cũng phải tiêu gia, bại sản vì bè lũ tay sai, cướp bóc, tịch thu tài sản, nhà cửa, đất đai, ruộng vườn... và rất nhiều anh em chúng tôi tự các trại tập trung trở về với gia đình, xã hội, chúng tôi ghi nhớ mối thâm thù này đến chết. Nhưng, khi đất nước bị thiên tai, lũ lụt, đồng bào lâm cảnh màn trời chiếu đất, chúng tôi không nghĩ đến mối thâm thù này, chúng tôi tự quyên góp, vận động để gửi về Việt Nam những đồng tiền có được bằng mồ hôi, nước mắt trên đất khách, quê người, để mong xoa dịu phần nào nỗi thống khổ đã triền miên nhiều đời trên dân tôi, nước tôi. Chúng tôi biết, và biết rất rõ, trong những bàn tay ngửa ra nhận những ân tình của chúng tôi chuyển về, có cả những bàn tay của những kẻ năm xưa đã thẳng tay sát hại cha mẹ, anh em, thân nhân, đồng đội chúng tôi, có cả những bàn tay đã từng cướp sạch tiền của, nhà đất, ruộng nương, cùng công ăn việc làm thường nhật của chúng tôi... Chúng tôi cũng biết thật rõ, không ít người trong hàng ngũ đồng chí của ông sẽ ăn chặn, bớt xén những đồng tiền mồ hôi nước mắt của chúng tôi gửi cho đồng bào các vùng thiên tai, bão lụt, và chúng tôi cũng biết thật rõ những đồng chí các ông hiện nay, bây giờ, ăn nhậu, tiệc tùng sang trọng hơn chúng tôi rất xa, có những đồng chí của ông hiện đang có con em theo đuổi các Ðại học đắt tiền trên Hoa Kỳ mà chính bản thân con em chúng tôi đang ở Hoa Kỳ, hàng mơ ước, mong đợi... Chúng tôi biết rất rõ, nhưng chúng tôi vẫn phải làm, vẫn phải dè sẻn mức chi dụng để thi hành cái bổn phận, cái tính người kia. Cái tính người này, chúng tôi được học hành và dạy dỗ tự bé ở VNCH ông Trung ạ. Dẫu ly tông xa tổ, chúng tôi vẫn gìn giữ, bởi chúng tôi ý thức một điều, đánh mất cái này, tức là trở thành thú vật, là trâu, chó, là heo ngựa, v.v. Ông cũng từng được hấp thụ nền giáo dục này của Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, trong vòng tay bảo vệ của chúng tôi năm xưa, ông không phải gọi kẻ xa lạ nào đấy bằng Bác khi còn tấm bé, ông cũng không phải quên công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy để ghi nhớ cho cái công ơn bố láo của Ðảng gì đó, của Bác gì gì đó, cho đến ngày ông phản bội chúng tôi. Ngay cả đến phút cuối, khi ông mờ mắt vì những hứa hẹn hão huyền của Việt cộng, để làm cái chuyện nông nỗi năm xưa, hẳn ông vẫn chưa quên?... Lúc ấy, ông đã bỏ vợ, bỏ con lại trong vòng tay của chúng tôi, thi hành cái mệnh lệnh của Việt cộng mà như ông đã nói với Mark là đã được bàn thảo, kế hoạch rất kỹ trước đấy. Ông dẫn dắt Việt cộng trở về oanh kích nơi đang cưu mang vợ con ông. Giả dụ, một quả bom oan nghiệt nào đấy vô tình giết hại vợ con ông trong vòng tay của chúng tôi, hẳn ông sẽ có thêm chuyện bịa đặt, thêm thắt nữa về những cái tính người của chúng tôi cư xử với kẻ phản bội, kẻ phản quốc, tên tội phạm nghiêm trọng?... Nhiều năm trôi qua, ông có nghĩ đến việc này không? Suốt 25 năm qua, có lúc nào ông tự hỏi, tại sao khi ông liều mình thi hành mệnh lệnh của Việt cộng, để Việt cộng lại có thể nhẫn tâm, bỏ vợ con lại trong vòng tay của chúng tôi không? Việt cộng và hàng ngũ nằm vùng, du kích không ít trong lãnh thổ của chúng tôi, tại sao chúng không đem vợ con ông ra mật khu trước, để ông được yên tâm thi hành cái việc làm do chúng chỉ thị?... Thử một lúc bình tâm nào đó, suy nghĩ chín chắn về điều này theo cái nhìn trung thực nhất của người bình thường xem sao... Rất là vô ích khi kể lể điều này với ông, nhưng vẫn phải nhắc đến, viết lại, vì đây là cái tính người, bình thường như bao tính người khác mà ông và các đồng chí của ông chưa từng biết, chưa từng làm được, chưa từng ao ước vươn đến. Còn nếu, ông xem việc bỏ vợ con lại cho chúng tôi để tích cực thi hành nhiệm vụ Việt cộng giao cho ông, là chuyện chuyên chính vô sản, thì quả là ông cũng đạt đến được cái đích vô gia đình của Việt cộng trước khi quay đầu về với chúng. Riêng cá nhân tôi, tôi nghĩ, trong thâm tâm của ông, lúc ông quyết định thực hiện cái ý đồ riêng tư nọ, ông đã chắc ăn là Quân chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi biết tôn trọng, luật pháp và hiến pháp của đất nước mình, chúng tôi hành xử công việc theo tinh thần thượng tôn luật pháp, không bao giờ tiểu nhân, trả thù ông bằng cách đày đọa vợ con ông, bắt vợ con ông đi vùng kinh tế mới để cưỡng đoạt nhà cửa, ruộng vườn, tư liệu sản xuất, nhà máy, công ăn việc làm, như Việt cộng từng làm với vợ con chúng tôi, do vậy, do chắc ăn như vậy, ông để vợ con lại thủ đô Sàigòn an toàn hơn là cưu mang về vùng giải phóng của các đồng chí của ông... Kết luận cho đoạn viết dài dòng này, điều ông tường thuật với Mark về cái chết của thân phụ ông cũng thiếu trung thực, thêm thắt, chính xác hơn là tuyên truyền, ngụy biện cho hành động của ông đã làm vào những ngày tháng 04 năm 1975. Hôm nay, khi viết những dòng này, tôi vẫn còn uất hận, nhiều đồng bào tôi, đồng đội tôi không thể quên kẻ thù và những tội ác của chúng, nhưng chúng tôi phải nén nỗi uất hận này trước hoàn cảnh tang thương tang tóc của nhiều đồng bào chúng tôi đang màn trời, chiếu đất, đang vô vọng trước cảnh đói rét chưa từng trong đời, chúng tôi tạm nguôi nỗi uất hận, sự căm thù để nghĩ về đồng bào chúng tôi. Chúng tôi thừa biết ông và các đồng chí của ông đang mỉm cười đắc chí vì đạt được những mưu đồ đã sắp đặt, và nhiều đồng chí của ông, đôi khi cả chính bản thân ông đang ký sinh vào những ân tình của chúng tôi gửi về cho các đồng bào khốn khổ này! Chúng tôi vẫn phải làm! Bởi như đã nói, chúng tôi không thể mất đi cái tính người mà chúng tôi được nuôi dậy từ trong nước. Bài viết này muộn màng so với thời điểm mà ông trình bày quan điểm lập trường của ông với một phóng viên Mỹ. Nhưng tôi vẫn viết, không để tranh luận hơn thua với những điều ông nói với Mark, lại chẳng cần phải thanh minh gì với công luận về những điều này, duy chỉ trình bày một điều thực, việc thực, con người thực từ những những chuyện thực, thuộc thiên niên kỷ trước. Tôi cũng không quan tâm và ái ngại việc ông và các đồng chí của ông sẽ bóp méo lịch sử Việt Nam như nhiều người thường lo ngại, bởi tôi tin một điều, những con người trí trá, gian dối, lừa thầy phản bạn, những kẻ này thường hay sợ sự thực, sợ đối diện với sự thực, mà lịch sử luôn luôn là sự thực, việc thực, người thực, do vậy, ông và các đồng chí của ông làm sao có thể bóp méo được lịch sử. Ông cũng đừng lo là về sau này, nếu chúng tôi có dành lại được chính quyền ở Việt Nam, chúng tôi sẽ không bắt ông đi trình diện, để sau đó gửi ông vào một trại tập trung xa xôi hẻo lánh nào đó, nơi đó ông sẽ bị bỏ đói, bị lao động khổ sai, chết dần, chết mòn như Việt cộng đã làm với tôi, với anh em đồng đội chúng tôi khi chúng cướp được VNCH chúng tôi, chúng tôi sẽ không làm như Việt cộng đã làm, để trả thù việc ông phản bội chúng tôi đâu. Chúng tôi không quan tâm gì mấy về cái việc nông nỗi, trí trá của ông đâu, vì bởi như tôi đã nói, chúng tôi phải bảo vệ cái tính người sẵn có của chúng tôi. Xin đừng gọi chúng tôi là đồng đội Còn một điểm nhỏ, tôi cần nói thêm với ông, trong đoạn cuối của bài tường thuật với ký giả Mark, ông gọi chúng tôi là “đồng đội”! Tôi e rằng ông đi hơi xa và quá hấp tấp để dùng chữ đồng đội này. Nhắc ông nhớ một điều, hai chữ đồng đội và đồng chí khác nhau xa lắm ông Trung ạ! Ông từng có thời gian đứng trong hàng ngũ chúng tôi, chắc ông ắt hiểu cái ý nghĩa cao quý của chữ đồng đội. Nhiều anh em chúng tôi từng hiên ngang bước tới, nhận lãnh cái oan nghiệt của chiến tranh thay cho chúng tôi, vì cái ý nghĩa đồng đội này. Cho mãi đến hôm nay, chúng tôi vẫn gọi nhau là đồng đội, dẫu chúng tôi bước ra khỏi cái tử sinh của chinh chiến, vì chúng tôi nặng nợ với nhau, thật sự là đồng đội của nhau, cùng nhau nhìn về một hướng, cùng phong cách khi còn sống, thật sự thương xót, đau đớn khi nhìn đồng đội mình còn bị giặc cầm giữ, hành hạ, thảm sát. Chúng tôi biết nhục nhã, hổ thẹn khi vì bất cứ lý do gì, quay lưng đi trước sự đau khổ của đồng đội, phản bội lại đồng đội. Giữa chúng tôi, chưa hề có đồng đội nào chạy sang phía Việt cộng, dẫn dắt, chỉ bảo Việt cộng cách thức, đường lối để đày đọa, tàn sát đồng đội mình. Chữ đồng đội ý nghĩa như vậy ông Trung ạ! Khác xa lắm cái chữ đồng chí mà ông và một số kẻ khác đang dùng. Nói như vậy, thật sự cũng không phải tranh luận đúng sai gì với ông, chỉ để ông và tôi cùng nhìn lại, hiểu đúng về một vài ngôn từ Việt Nam. Dầu sao, ông vẫn có thể sử dụng lại cái chữ đồng đội mà ông nói, một khi ông làm được những điều vừa nói trên. Không cần ông phải lấy cắp một chiếc Mig 21 nào đó, vất một hai quả bom vào chỗ làm việc của Trung ương đảng Việt cộng, chúng tôi cũng không cần ông chỉ bảo cách thức bay Mig 21 để được ông hướng dẫn bay ra phi trường Kép, hay Nội Bài, hoặc Tân Sơn Nhất hiện nay, để oanh kích những mục tiêu này; Ông không cần thiết phải làm những việc này ông Trung ạ! Chỉ hiểu đúng, và thực hiện đúng cái nghĩa đồng đội như tôi dẫn ở trên là đủ. Ðể kết thúc bài viết này, tôi lập lại một lần nữa, bài này dành cho những người trung thực, chỉ biết nói điều thực đọc nó, rất tiếc, ông đã đánh mất cái tính người này kể từ ngày ông phản bội chúng tôi, chạy theo Việt cộng, do đó có lẽ ông không còn tư cách gì để đọc nó, dẫu ngay trên đầu bài viết này, đề tên của ông: Nguyễn Thành Trung. Tuy nhiên như ông đã nói với ký giả Mark, cái tên này cũng không thực là của ông, mà là tên của một thanh thiếu niên nào đó, ông lấy giấy tờ hộ tịch của người này để len lỏi vào hàng ngũ chúng tôi, thực hiện việc riêng tư của ông. Ðiều lẩn quẩn này ông cũng không xa lạ gì, vì chính cái tên Hồ Chí Minh mà hiện nay, ông và một số người khác đang ca tụng, sùng bái, thật sự là tên của một lão già Trung Hoa nào đó bị ho lao, chết vô thừa nhận trong một bệnh viện hẻo lánh bên Trung Hoa lục địa lâu lắm rồi, ai đấy đã lấy giấy tờ hộ tịch của lão này sử dụng lại, để làm việc gì đấy, để đến hôm nay, ông và một số kẻ khác tung hô, ngưỡng mộ cái tên Hồ Chí Minh Trung Hoa lục địa này! Cũng như các tên Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Ðức Thọ, Mai Chí Thọ, Ðinh Ðức Thiện, Ðỗ Mười, Tố Hữu, Phạm Hùng, Mai Thị Lựu, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị Ðịnh, Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Ðằng v.v... tất cả đều là tên của một kẻ vô danh tiểu tốt nào đó, không hề có lai lịch, gốc gác hộ tịch trong Việt Nam, để hôm nay, có một số người nhắc nhớ, tưởng niệm, suy tôn. Ðiều tiếu lâm này, những người Không Quân trên toàn thế giới lấy làm xa lạ, nực cười, trừ ông và các đồng chí của ông ra.
|