Tháng Tư Nghiệt Ngã |
Tác Giả: Phạm Hồng Ân | |||
Thứ Tư, 07 Tháng 4 Năm 2010 17:00 | |||
Tháng Tư nghiệt ngã, mịt mùng tai ương. Biển nhấp nhô sóng bạc đầu Trước 1975, tác giả là một sĩ quan hải quân, từng tu nghiệp tại Mỹ. Sau năm 1975, ông trở thành người tù chính trị. Và sau cùng, định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Từng là một nhà thơ quân đội có tiếng, ông cũng tham dự nhiều sinh hoạt cộng đồng tại San Diego. Sau đây là hồi ức mới nhất của ông, về cuộc di tản trên biển hãi hùng tháng Tư 1975 từ Đà Nẵng vào miền Nam., và chuyện đổi đời khi Saigon sụp đổ, chuyện đời đổi khi tác giả và gia đình định cư tại Hoa Kỳ. 1975. Bể thảm mênh mông Tháng Tư nghiệt ngã, mịt mùng tai ương. Biển nhấp nhô sóng bạc đầu. Những lượn sóng tưởng chừng vô tận, từ ngoài khơi sùng sục tới, cuốn hút tất cả, đập tan mọi thứ. Tôi ngồi trên HQ231, thượng phiên con tàu trong sóng nước chập chùng. Vùng II duyên hải náo loạn. Dân và lính đua nhau di tản về phía nam trên những Dương Vận Hạm, Hải Vận Hạm... Không còn chỗ chen chân trên Hạm, họ dùng cả những ghe đánh cá, những ghe chở lương thực trên sông, chất đầy ắp ngườiù, nổ máy lạch tạch lùi về phía nam, như hối hả trốn chạy một cơn đại dịch đang hoành hành. Tiếng la khóc vang dội khắp mặt biển, hòa cùng với tiếng rít của gió, tiếng đập của sóng... tạo thành một khung cảnh bi thảm của tử thần. Nhiều ghe đang chạy chợt vỡ tung từng mảnh, vì không thể kham nổi sức tải quá trọng lượng. Nhiều ghe đâm vào nhau trong sương mù, người ta rớt xuống biển, lôi kéo nhau chìm nghỉm xuống lòng đại dương. Những chiếc Dương Vận Hạm đầy nghẹt người, chen chúc, giành giựt nhau từng chỗ để lọt chân. Một số người tuyệt vọng bám sau lái tàu, bị chân vịt quẫy nước cuốn hút vào, chém đứt thân thể, máu phọt lên mặt nước, đỏ lòm. Đám quân tháo chạy lơ láo, có kẻ tuyệt vọng điên cuồng tách rời khỏi hàng ngũ, rồ dại nã súng xối xả vào thường dân trên tàu, chỉ bởi lý do không ai chịu nhường chỗ cho chúng lên tàu. HQ231 chúng tôi có nhiệm vụ hộ tống và bảo vệ các Dương Vận Hạm. Trong khi các Dương Vận Hạm này làm công tác di tản dân và lính, thoát khỏi vùng địch sắp chiếm đóng. Điều đau đớn, với nhiệm vụ hộ tống và bảo vệ, nhưng chúng tôi không được quyền bắn một viên đạn nào. Mọi tình huống xảy ra đều báo cáo về thượng cấp. Nhiệm sở tác chiến sẵn sàng 24/24, các ổ trọng pháo trên tàu lăm le nạp đạn, quay nòng súng trực chỉ về phía địch, rồi...cũng để làm "cảnh", cũng để "màu mè hoa lá cành". Thượng cấp không ban lệnh KHAI HỎA, chỉ ban lệnh RÚT LUI. RÚT LUI một cách kinh hoàng. Quốc lộ 1, ban đêm, T.54 của Bắc Việt rọi đèn pha, ung dung tiến vào nam như chốn không người. Thỉnh thoảng, chúng dừng lại vài giờ, quay đại bác ra biển, khạc một hơi về phía tàu chúng tôi. Suốt ngày, MIG.21 Bắc Việt dàn đội hình quả trám, bay vần vũ trên bầu trời. Chúng lượn thật thấp quanh các chiến hạm, chầm chậm nhởn nhơ qua những ổ phòng không lạnh tanh, như khiêu khích, thách thức. Buổi tối, biển bắt đầu hung hăng, bạo tàn hơn. Nó rầm rập tung xối xả hàng hàng cột nước ngất cao, vây phủ từng chiến hạm. Giữa những mịt mùng ghê rợn đó, một ghe dân trọng tải khá lớn đâm sầm vào chiếc Wec khổng lồ. Chiếc ghe thoáng chốc tan tành từng mảng, hàng trăm thường dân rơi lả tả xuống nước. Đoàn tàu đang đi, dừng lại, báo động. Các chiến hạm rải đều ra, khoanh vùng. Thủy thủ xôn xao chuẩn bị áo phao, cấp tốc cứu vớt. Tờ mờ sáng, tầm nhìn xa chưa được 10 mét, đèn pha trên boong tàu soi rõ mồn một vùng biển tang thương. Công tác nhân đạo...vẫn tiếp tục. Thủy thủ đều mệt nhoài, quân phục đã sũng ướt, cứ thiết tha dầm mình trong giá lạnh để di chuyển từng thi hài lên tàu. Bây giờ, nồng độ muối đậm đặc của trùng dương mặn mòi, bắt đầu đẩy vọt những tử thi đã chìm dưới đáy biển đêm qua lên mặt nước. Họ trôi lờ đờ, dật dờ một cách đau lòng. Hình ảnh thương tâm nhất, đập vào tâm trí chúng tôi dấu ấn khó nhạt nhòa : xác người đàn bà ôm con cứng ngắt trong lòng, trôi lềnh bềnh dưới nước. Bà bị sợi dây thừng dài quấn quanh cổ, đầu dây phía kia dính vào mảnh ván ghe, kéo nhau lều bều theo sóng. Còn đứa bé như nhắm nghiền mắt vô tư, hồn nhiên ngậm bầu vú mẹ đang căng rữa , trần trụi. Thượng sĩ nội vụ vuốt mắt, cầu nguyện siêu thoát cho mỗi linh hồn bạc phước. Ông đem bình hoa nylon từ phòng ăn sĩ quan lên đặt trước các thi hài, trịnh trọng thực hiện các nghi lễ cổ truyền. Trên boong tàu, tôi và các sĩ quan đồng nghiệp chụm đầu nhau đặt dấu hỏi, chiếc ghe xấu số có thực sự rủi ro bị tai nạn thảm khốc trong đêm tối không? Xác phụ nữ đều đồng loạt lõa lồ, trần truồng như nhộng - phải chăng bọn thảo khấu nào đó đang diễn trò cướp bóc, hãm hiếp...trên chiếc ghe oan nghiệt này? Đoàn tàu uể oải giữ đội hình quả trám, rã rời xuôi nam. Mig.21 không gầm gừ với chúng tôi nữa, có lẽ lũ nó đã tấp xuống một phi trường vừa bỏ ngõ, uống rượu ăn mừng một chiến thắng kỳ quặc nhất lịch sử. Trên bờ, T.54 vẫn sùng sục tiến vào các thành phố, nghe hơi giặc từ xa, dân chúng nháo nhào chạy tán loạn. Họ sợ diễn lại cảnh giết người tập thể ở Huế, hồi tết Mậu Thân năm xưa. Buổi trưa, nắng gay gắt. Mặt trời rớt những mảng sáng chói lòa trên lưng chiến hạm. Dẫu vậy, gió biển luôn gào thét từng hồi. Sóng chụm đầu nhau, quẫy nước, nâng bổng con tàu ngửa nghiêng suốt hải trình. Ngoài khơi, hai chiếc Wec đang tìm cách cặp vào nhau, tiếp tế lương thực. Lúc thủy thủ vừa chuẩn bị cột dây, hai con tàu chợt ngã ngang theo sóng, va chạm liên hồi. Tai ương lại đổ ập xuống...Cứ mỗi lượn sóng nhồi, hữu hạm chiếc này đập chát chúa vào tả hạm chiếc kia nghe rối bời gan ruột. Hạm Trưởng thét vào máy điện đàm, cố gắng chỉ huy tách hai chiếc tàu ra, nhưng chúng giống như thỏi nam châm có sức hút mãnh liệt, không thể kéo rời. Sự va chạm khủng khiếp làm tan nát một khoảng dài thành tàu. Các đồ vật trên boong, đổ văng tung toé xuống biển. Buổi chiều, mặt biển tối đen,khắc sâu bóng dáng tử thần.. Vài xác chết đã trương sình, lững lờ trôi rải rác đó đây. Tôi chợt nhớ đến bốn câu thơ của Đoàn Nhữ Khuê: Bể thảm mênh mông sóng lụt trời Khách trần chèo một lá thuyền chơi Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió Coi lại cùng trong bể thảm thôi! Tiếng đạn pháo đì đùng từ T.54 của vixi kéo tôi về thực tại. Kẻ thù đã tấn công chiếc Dương Vận Hạm nhân đạo, đang cố châu mũi vào Cam Ranh để rước dân và lính. Một quầng khói đen bốc ra dày đặc từ đài chỉ huy Dương Vận Hạm - chiến hữu của ta vừa gục ngã trên đó... Tại phi trường Cam Ranh, đoàn trực thăng khoảng vài chục chiếc hối hả bốc lên. Họ bay thẳng ra biển, nối đuôi nhau lặng lẽ, trong tư thế rút lui. Cuối cùng, HQ231 về tới Vũng Tàu, sau chuyến hải hành rời rã tận cùng. Chưa kịp lăn đùng ra ngủ một giấc cho đã, chúng tôi lại được lệnh ra Tạm Trú Hạm nhận lương thực và nhiên liệu gấp, rồi ngược dòng Mékongvề án ngữ tại Tân Châu. Chợ Vàm là một trong chợ xã của Tân Châu. Nó nằm bên dòng Mékong thơ mộng, dáng dấp hiền lành như cô gái quê chất phác. Chợ chỉ lưa thưa dăm ba gian hàng nhỏ, vài quán cà phê, và ít xe giải khát lưu động. Ở đây, không khí hoàn toàn yên tĩnh. Chưa có dấu vết của chiến tranh lan tới. Vừa tìm chỗ neo tàu an toàn, Hạm Trưởng vội vã xách hành lý, nhảy tọt xuống chiếc giang đỉnh đang chờ sẵn, hấp tấp rời tàu. Đám sĩ quan lao nhao, vài vị phóng bừa theo, xin được tháp tùng về Sài Gòn. Trong khi đó, thủy thủ ùa ta từ các phòng, đứng dài dài trên boong tàu, la ó vang rân một góc trời. Buổi tối, vài nhóm thủy thủ lên bờ từ ban chiều, lục tục kéo về tàu. Mùi rượu bay nồng nặc, bay quanh quất lên trên các khuôn mặt đỏ gay. Họ gọi sĩ quan ra cật vấn. Họ chửi thề, giằng co, đánh nhau túi bụi, gây huyên náo toàn chiến hạm. Sáng 30 tháng Tư, tôi đau khổ trút bỏ bộ quân phục, tháo tung cặp lon trung úy, cúi đầu xuống dòng sông, lặng lẽ rời tàu. Đổi đời Tháng năm, gia đình tôi thất lạc nhau. Tôi chỉ gặp lại vợ và đứa con trai 5 tháng tuổi, tá túc tạm thời trong căn nhà Bà Nội vợ. Má tôi ở trại gia binh Biên Hòa với người anh Biệt Động Quân. Khi quân đội tan hàng, không biết trôi giạt về đâu? Người anh cả thuộc sư đoàn II bộ binh đã mất tích ở Quảng Ngãi vào tháng Ba, trong trận di tản kinh hoàng. Tôi về Sài Gòn, tìm Má tôi khắp nơi. Dò la tông tích từ những người tản cư miền đông lên, nhưng không có kết quả. Thành phố nhộn nhịp ngày xưa, nay im lìm như bãi tha ma. Lao nhao có vài đám đông bu quanh bọn cộng sản Bắc Việt, tỏ vẻ nịnh bợ, hoặc ngả ngớn cợt đùa. Ngoài đường, rác rến tràn ngập. Có chỗ, quân phục, quân trang, ba lô...chồng chất lên nhau. Giấy má rải đầy. Những đám lửa nhỏ còn bốc khói, khét lẹt. Các cơ quan hành chánh cũ trống hoác. Những tầng lầu bỏ hoang. Vợ lính, con lính, cùng dân chúng tản cư...chui nhau vào đó lánh nạn. Tôi gặp Má tôi ở trại tạm cư trên đường Công Lý. Má ốm yếu, gầy gò như que tăm. Chiến tranh kết thúc đã để lại trong Má một nỗi đau đớn, quá khủng khiếp. Bốn đứa con đi lính, cho tới hôm nay... vẫn chưa trở về đầy đủ. Căn nhà ở khu gia binh bị cộng sản tịch thu. Tương lai tối đen trước mặt. Uất ức, Má ôm tôi khóc mùi mẫn trên chiếc chiếu rách tả tơi, trải tạm bên góc thang lầu đầy tàn thuốc. Ngày sau, thằng em Biệt Động Quân tử thủ ở Buôn Mê Thuột trở về với bộ quần áo rách bươm, thân thể hôi như cú. Chúng tôi lại ôm nhau, khóc ròng, mừng mừng tủi tủi... Chúng tôi bàn nhau đưa Má về Chương Thiện. Vì ở đó còn người chị bà con, có thể tạm nương náu qua ngày. Cuối cùng, các anh và các em tôi còn lại, kẻ trước người sau... khăn gói vào tù. Ngày vào tù, vợ tôi chưa đầy 21 tuổi. Nàng bồng đứa con trai duy nhất vừa được 5 tháng, tiễn tôi đến tận trại tù. Chúng không khóc được. Hình như nước mắt đã cạn khô từ những tháng trước. Đứng trước cánh cổng nhà giam âm u như địa ngục, tôi nhìn nàng, nhìn con.. .đành giao phó mình cho số Trời. Và Đời Đổi Chỉ không đầy 24 tiếng đồng hồ, từ Việt Nam qua Mỹ, gia đình tôi đã thay đổi một cách trọn vẹn. Túp lều ngai ngái phân trâu, mái dột cột xiêu, một thời che nắng che mưa cho vợ chồng tôi - thoáng chốc, bị đẩy lùi về quá khứ. Nó được thay thế bởi một apartment sáng sủa, đầy đủ tiện nghi - mà chúng tôi phải rón rén bước đi, khi đặt chân lên tấm thảm mềm mại. Hành trang mang theo gồm cái túi xách cỏn con, bên trong đựng vài bộ đồ nhăn nhúm, ít cuốn anh văn lỗ chỗ dấu mọt gặm, dăm đồ dùng linh tinh làm ở trại cải tạo...Giờ đây, chỉ có nước vứt đi. Vì nhà thờ mới đem cho chúng tôi một thùng đồ to tổ bố. Trong đó, vừa có quần áo hợp thời trang, vừa có những vật dụng cần thiết, đủ phong phú cho cuộc sống hiện tại. Cách đây không lâu, tôi còn lóc cóc bán vé số khắp hang cùng ngõ hẻm. Buổi tối, trời mưa, còn quơ đại chiếc áo rách tả tơi, lật đật đốt ngọn đèn chong mờ mờ ảo ảo, lội xuống ruộng đầy đỉa vắt, bắt từng con nhái bầu..." kiếm cơm " cho một ngày sắp tới. Vậy mà, bây giờ, ngồi chễm chệ trên xe huê kỳ của vị Giáo Sĩ ( sponsor), đi đến từng cơ quan, bắt tay từng người sang trọng. Vợ tôi hả hê, tủm tỉm cười suốt ngày. Nàng thích nhất cái tủ lạnh đầy ắp thức ăn. Nào gà, nào thịt, tôm, cua, rau, hành, trái cây...lĩnh kĩnh - do vị sponsor đã hào phóng, khéo léo đặt vào. Mới đó, ở Việt Nam, nàng còn lui cui ra vườn hái rau cải trời, rồi nhảy đùng xuống ao vớt tép rong, mong nấu được nồi canh lõm bõm cho chồng, cho con. Thằng con tôi dễ ghét hơn. Cậu nằm dài trên sofa, lăn qua lộn lại, khoan khoái tận hưởng những giây phút thần tiên, hiếm hoi nhất trong đời. Năm dài tháng rộng trôi qua, tôi chưa hề thấy mặt tên cảnh sát hay công an khu vực nào quấy rầy. Cũng chưa có ai đến gõ cửa xét giấy hoặc hỏi hộ khẩu bao giờ. Nhớ lại, ở Việt Nam, hàng tuần tôi phải lặn lội lên đồn công an trình diện. Muốn ra khỏi xã, phải có giấy phép đi đường, phải cầu cạnh xin xỏ đủ điều. Mỗi ngày, các " nhóc " du kích cứ thay nhau đến nhà " thăm viếng ", cho đến khi...rượu cạn bầu, bao rỗng thuốc...mới thôi. Vợ tôi đang apply vào một hãng điện tử Poway. Nàng vừa lấy xong bằng căn bản về Electronic Assembly. Trong khi chờ đợi công việc, nàng tạm đi cắt chỉ ở hiệu may gần nhà. Sáng làm, chiều đã rinh về một máy cassette mới toanh. Cái máy mà nàng ước mơ từ hồi còn nơi quê nhà. Mười mấy năm quần quật với ruộng đồng, cấy mướn gặt thuê, nàng vẫn chưa dư ra chút khoản tiền để mua được nó. Điều thích thú nhất của nàng, ở đây, phụ nữ được tôn lên hàng đầu: "lady first". Thực ra, VC cũng có khẩu hiệu đưa phụ nữ lên bình đẳng với nam giới: "nam nữ bình quyền". Nhưng, đó chỉ là cớ để đẩy người đàn bà ra chiến trường: tải thương, vác đạn... Đưa người đàn bà gánh lấy trách nhiệm nặng nề hơn người đàn ông : vừa nuôi chồng trong trại cải tạo, vừa nuôi con nơi quê nhà. Vợ tôi đã sống qua những chuỗi ngày đau đớn đó. Có lần, nàng bị kiệt lực vì " làm nhiều, ăn ít " - đến nổi trụy tim, suýt chết trên đồng ruộng. Kẻ làm băn khoăn và bận tâm nhất trong gia đình tôi, là thằng con. 12 năm học trò của cậu ngập chìm trong bóng tối. 12 năm dưới mái trường XHCN, người ta chỉ lếu láo dạy " Bác và Đảng ", lao động là vinh quang, cùng những điều " lấp biển vá trời " khác. Người ta cố bôi xóa hình ảnh CHA MẸ, một hình ảnh thiêng liêng nhất trong cuộc sống con người. Thời đó, bọn "nhóc" - trạc tuổi con tôi - thường hay ngâm nga câu này, sau mỗi lần say lúy túy: Công cha như rượu đầy chai Nghĩa mẹ như vịt xé phay...làm mồi. Nền giáo dục XHCN đã làm trì độn trí tuệ, làm thui chột tài năng của đứa trẻ...nên khi sang Mỹ, thằng con tôi không đủ khả năng tiếp tục học hành. Cậu chán nản, bỏ nhà, lang thang khắp nơi. Cuối cùng, cậu chọn nghề nail, lò mò qua Chicago sinh sống. Nếu ở xã hội ta, đạo đức là đạo lý của đức hạnh, là giềng mối, là khuôn vàng thước ngọc để hậu thế đi theo. Sau 1975, đạo đức này bị đổi ngược thành đạo đức cách mạng - lộng giả thành chân, kinh khiếp nhất trần gian...Thì ở Mỹ, đạo đức là điều phải lẽ hay bàng bạc trong chốn học đường, trong các tôn giáo. Nhà thờ, chùa chiền, đền đài...đầy dẫy trên đất Mỹ. Và dĩ nhiên, đạo nào cũng khuyên con người nên làm THIỆN, diệt ÁC. Công cha nghĩa mẹ được nhắc nhở hàng năm qua các ngày lễ: Mother's day, Father's day... Thậm chí, có cả ngày Grandparent nữa. Và ngày lễ Thanksgiving: tạ ơn Trời, tạ ơn đời, tạ ơn người, tạ ơn các bậc tiền nhân đã có công xây dựng nên nước Mỹ. Có lẽ, Chúa đã đổi đời, đã tái sinh gia đình tôi, đã cho chúng tôi một chỗ đứng ấm áp trong xứ sở thần tiên này. Tên bán vé số hèn mọn ngày nào, mụ đàn bà lọ lem cấy thuê gặt mướn năm xưa, kể cả thằng nhỏ lang thang bụi đời - luôn tủi hổ vì cái lý lịch Ngụy Quân của ba nó... Ngày hôm nay, tất cả đều trở thành những con người hữu ích cho xã hội Mỹ. Tục ngữ La Tinh (Latin proverb) có câu: "Where liberty is, there is my country". Ở đâu có tự do, ở đó là tổ quốc tôi. Ngày nay, gia đình thằng con tôi đã có một cơ ngơi vững vàng. Chúng tôi có thêm những đứa cháu nội kháu khỉnh: Phạm Tammy, Phạm Cindy, Phạm An Golden... Và điều đặc biệt nhất, cứ mỗi năm đến ngày 30 tháng Tư, chúng tôi dọn một mâm cơm, cầu nguyện và tưởng tiếc đến những chiến sĩ vị quốc vong thân, những người đã cống hiến cuộc đời, đã hy sinh một thời tuổi trẻ cho đất nước Việt Nam...
|