Home Tin Tức Bình Luận Thành lập Nato phương Đông

Thành lập Nato phương Đông PDF Print E-mail
Tác Giả: Lê Văn Xương   
Thứ Tư, 18 Tháng 8 Năm 2010 07:37

Nhiều cuộc phô diễn  quân sự liên tục tại Thái Bình Dương của Mỹ cùng các  đồng minh trên vùng biển Hawai cũng như vùng biển Triều Tiên ;
 


 

Nhiều cuộc phô diễn  quân sự liên tục tại Thái Bình Dương của Mỹ cùng các  đồng minh trên vùng biển Hawai cũng như vùng biển Triều Tiên ; các lời tuyên bố mạnh của nhiều quan chức cao cấp Mỹ liên quan đến Biển Đông ; hàng loạt các cuộc thăm viếng của các giới chức Anh đến Ấn Độ ; các dấu hiệu khác cho thấy lần đầu tiên kể từ sau khi rút khỏi Đông Dương năm 1955 theo thỏa hiệp Geneve chia đôi VN năm 1954, Pháp đang tỏ dấu hiệu cho thấy cũng đang chuẩn bị trở lai vùng Đông Dương theo một cách nào đó ; Nga cũng đang tập trận tại vùng Sibia với phương tiện chiến tranh được tăng cường mạnh mẽ, song song với việc mở rộng quan hệ quân sự với VN ; Nhật cũng đang tìm kiếm cách thức củng cố quan hệ chính trị an ninh với VN . Đối lại với các diễn biến đó, Bắc Kinh lên tiếng đả kích dữ dội nhắm vào Mỹ , tập trận bắn đạn thật trên quy mô lớn kết hợp hai hạm đội tại vùng biển Đông của nước ta .

Đụng độ quân sự tuy chưa sảy ra theo cách thức kiểu cổ điển, nhưng hình thái chiến tranh hiện đại nhất thực tế đã sảy ra rồi . Tình hình này đặt ra câu hỏi là : có sự khác biệt nào giữa việc Âu Châu xâm lăng Á Châu để biến thành thuộc địa hồi thế kỷ 19, với cuộc trở lại Á Châu của các thế lực Phương Tây hôm nay hay không ? và rồi tương lai của Á Châu sẽ ra sao ? một lần nữa trọng tâm tranh chấp tại Á Châu vẫn tập trú vào vùng bán đảo Đông Dương nà VN là điểm chiến lược quan trọng nhất trong cuộc chiến tối hậu này . Lịch sử đang được lập lại nhưng với chủ hướng mới, hy vọng mới ; cũng khá giống với chính tình Âu Châu trước khi thế chiến II nổ ra vào năm 1939 để dẫn đến chỗ quân Mỹ phải có mặt lâu dài tại Tây Âu để giúp ổn định tình hình tại đấy, xây dựng lại Tây Âu, đối đầu với Liên Xô trong chiến tranh lạnh ; để dẫn đến chỗ về căn bản thì toàn Âu Châu được thống nhất về một mối vào cuối thế kỷ 20 .

THẾ GIỚI ĐÃ THAY ĐỔI QUÁ SÂU RỘNG TRONG HAI THẾ KỶ QUA

Văn minh Âu Châu vào thế kỷ 19 thực ra vẫn chỉ mới ở bước khởi đầu trong quá trình chuyển hóa xã hội Âu Châu Trung Cổ sang xã hội Âu Châu hiện đại . Họ chưa thực sự hiểu về chính mình cũng như thế giới khách quan ; cho nên Âu Châu vào thế kỷ 19 vẫn bị chi phối bởi lối hành xử theo kiểu cổ lấy việc chiếm đoạt làm mục tiêu tối hậu để bảo đảm sức mạnh . Chủ trương như vậy đã được biết bao chế độ khác nhau từ đông sang tây thực thi trong suốt mấy ngàn năm lịch sử đã qua . Trước các tranh chấp liên miên tại Âu Châu nhân danh quyền lợi quốc gia, được cổ vũ bởi việc Tây Ban Nha mau chóng trở nên giầu có vượt bực khi xâm chiếm thuộc địa tại Nam và Trung Mỹ . Tây Ban Nha có khả năng chi phối cả Giáo Hoàng La Mã trong việc bảo vệ quyền lợi của Tây Ban Nha tại Tân Thế Giới, cũng như Bồ Đào Nha tại Viễn Đông . Nhiều quốc gia Âu Châu khác có lợi thế trên biển đua nhau tìm kiếm các cơ hội xâm chiếm thuộc địa để vơ vét tài nguyên cũng như bảo vệ thị trường của mình . Anh Quốc nổi lên để rồi đụng độ với Pháp trên biển vào đầu thế kỷ 19 khi thế lực Tây Ban Nha suy yếu hoàn toàn .

Nước Mỹ Hội Kín cứ tĩnh tọa chiêm quan các diễn biến sảy ra tại Âu Châu cũng như các vùng thuộc địa do Âu Châu chiếm đóng . Mỹ biết rõ một Âu Châu phân hóa đầy mâu thuẫn sẽ là cơ hội lớn để Mỹ vượt lên lãnh đạo thế giới, giải tán chế độ thực dân cũng như chủ nghĩa Cộng Sản để đem lại cho hòa bình cho thế giới . Các thế chiến, chiến tranh lạnh trong thế kỷ 20 đều nằm trong các toan tính thống nhất đó . Lịch sử lâu đời hàng ngàn năm của Hội Kín Freemason kết hợp với Hội Kín Cựu Dòng Tên là một nhánh thuộc Giáo Hội Công Giáo La Mã tự khắc biết cách thức bình định và xây dựng lại thế giới như thế nào . Cho nên chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa Cộng Sản phải bị dẹp tan là vậy .

Có như vậy thì thế giới mới huy động tổng lực được trí tuệ toàn cầu trong việc phát triển khoa học kỹ thuật , vốn được coi là chìa khóa giải quyết hàng loạt các tranh chấp do trình độ chậm tiến về trí tuệ đối với phần còn lại của thế giới gây ra, cũng như các cuộc tranh chấp đòi quyền quyền sống đối với nhiều vùng trên thế giới . Chỉ trong một thế kỷ kể từ khi Albert Einstein xuất hiện chánh thức năm 1915 đến nay, thế giới đã đạt được nhiều tiến bộ rất ngoạn mục không thể tưởng tượng nổi , hứa hẹn khả năng giải quyết căn bản mối lo của nhân loại liên quan đến miếng ăn, chỗ ở, an toàn bản thân . Tài nguyên thiên nhiên chẳng thiếu trên trái đất này, khoa học kỹ thuật cho phép loài người có thể khai thác được các loại tài nguyên trong vũ trụ cũng như khôi phục lại hệ sinh thái toàn cầu . Nhưng nỗ lực lớn lao ấy chỉ thực hiện được khi tranh chấp giữa một nhóm quốc gia vẫn bị chi phối bởi chủ nghĩa bành trướng theo lối cũ phải bị dẹp tan .

Nhiều người cảm thấy bi quan khi nhìn thế kỷ 20 toàn thấy chiến tranh thôi, chết chóc quá lớn, tương lai vẫn đầy bất ổn . Thực tế không phải như vậy . Tiến bộ mà con người đạt được trong thế kỷ 20 lớn lao lắm . Xin cứ nhìn Âu Châu trong đầu thế kỷ 20 hỗn mang như thế nào, chế độ thực dân tồi tệ ra sao, nhiều quốc gia Âu Châu cũng như Nhật Bản tiếp tục lao vào con đường chủ nghĩa đế quốc . Sau chiến tranh, đến cuối thế kỷ 20 Âu Châu ổn định, mầm mống chiến tranh bị dẹp bỏ . Người dân Âu Châu - kể cả vùng Balkan đầy xáo trộn về chủng tộc , tôn giáo đã từng là chiến địa của biết bao nhiêu cuộc chiến từ thời cổ đại để lại - ngày nay đã biết đến hòa bình , ổn định và thịnh vượng . Hãy cứ xem nước Nga chủ trương đế quốc từ khi lập quốc đến giờ, cũng chỉ miệt mài thôn tính nước khác, nay đang đạt được các tiến bộ rất đáng khích lệ trong việc hội nhập toàn diện với Âu Châu và đang đóng góp tích cực vào việc tạo dựng một thế giới mới .

Đối với phần còn lại của thế giới mà cụ thể nhất là tại Á Châu đầy dẫy các tranh chấp do lịch sử để lại vốn được coi là phức tạp hơn tình hình tại Âu Châu vào đầu thế kỷ 20 rất nhiều, thì ngày nay các giá trị về tự do dân chủ đang từng bước bén rễ trong lòng các xã hội ấy , dĩ nhiên ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào lịch sử của từng vùng . Á Châu quá rộng lớn nên mọi so chiếu với Âu Châu vào hồi đầu thế kỷ 20 cần được chia làm ba vùng  khác nhau , đó là vùng Trung Đông Lưỡng Hà, vùng Nam Á, vùng Viễn Đông . Mỗi vùng có những đặc trưng khác nhau, mức độc chín mùi khác nhau , cho nên cách giải quyết cũng khác nhau đối với thế giới trong thế kỷ 21 này . Mặc dù về tổng quát thì cả ba vùng thuộc Á Châu mênh mông đó bị chi phối sâu rộng bởi chủ nghĩa bành trướng Hán Hoa , các đối sách của Ấn Độ cũng như Nga ở phía Bắc, cũng như các nước Đông Nam Á sẽ làm cho cục diện Á Châu thay đổi sâu sắc trong 20 năm đầu của thế kỷ này .

HIỆN TÌNH Á CHÂU

Hai thế chiến cũng như chiến tranh lạnh nhằm mục tiêu cụ thể là giải quyết các mâu thuẫn về quyền lợi giữa các quốc gia Âu Châu với nhau . Dù có những khác biệt nhất định, nhưng nền tảng các xã hội Âu Châu vẫn thống nhất dựa trên tinh thần Kyto giáo ; ấy thế mà Âu Châu cũng không thể tự mình giải quyết được bất đồng quyền lợi, phải nhờ đến sự tiếp tay của Mỹ một cách kiên quyết mới thống nhất Âu Châu được .

Tình hình Á Châu phức tạp hơn rất nhiều :

a / tại đó các đế chế đã từng tồn tại liên tục đến 2500 năm , như Hán Hoa, Iran chẳng hạn , họ lại rất hãnh diện về lịch sử  lâu dài của mình nên luôn muốn tái tạo dựng đế chế kiểu xưa bất chấp các thay đổi của tình hình thế giới .

b / tại đó các tôn giáo đã từng là đầu mối của biết bao cuộc chiến sảy ra , các xã hội ấy vẫn chưa thoát khỏi tình trạng bị các nhóm giáo quyền chi phối về mặt tinh thần, nên mọi thay đổi hoặc can thiệp từ bên ngoài dễ dẫn đến điều mà ta gọi là chiến tranh tôn giáo hay chiến tranh văn hóa (Culture Schock) .

c / tại đó họa da vàng trở thành một thực tế hiển nhiên trong thế kỷ này khi Á Châu không còn bị các thế lực phương tây chi phối kềm hãm như đã xảy ra trong quá khứ ; Hồi Giáo có tỷ lệ sinh sản cao nhất thế giới bất chấp các hệ lụy để lại cho thế giới nhỏ bé này ; khối dân Tầu trên 1.3 tỷ sẵn sàng xâm thực thế giới .

d / Á Châu quá khác biệt về chủng tộc do quá trình thiên di cả trên chục ngàn năm để lại , cho nên mâu thuẫn chủng tộc cũng nặng nề hơn rất nhiều so với Âu Châu . Có vùng tiến bộ như Nhật Bản chẳng hạn, nhưng nhiều vùng khác vẫn sống và suy nghĩ như thời Trung Cổ ở Á Châu còn sót lại như Afghanistan chẳng hạn . Các chủng tộc như người Huns trắng sống trong vùng Trung Á đến Afghanistan, người có nguồn gốc Ariel tại Trung Đông, người Huns vàng xuất phát từ Malta thuộc bắc Mông Cổ thuộc Nga ngày nay, người Liujiang tức là Bách Việt cổ xuất xứ từ vùng Quảng Đông hiện nay . Các yếu tố chủng tộc, văn hóa, tôn giáo kết hợp lại làm cho Á Châu trở thành vùng phức tạp nhất thế giới .

e / Thời kỳ bị Âu Châu cai trị để lại cho Á Châu nhiều dị nghị đối với Âu Châu . Chiến tranh lạnh thông qua chủ nghĩa Cộng Sản chủ yếu nhắm vào việc tàn phá trật tự cũ tại vùng đất đầy bất ổn này ; đã đẩy Á Châu rơi vào tình huống bị một vài nước lớn trong vùng nuôi tham vọng thôn tính kiểu thuộc địa cũ .

Á Châu nay bất ổn toàn diện là vậy . Cần giải quyết tình trạng này thì thế giới mới yên được .

Á CHÂU KHÔNG THỂ TỰ GIẢI QUYẾT ĐƯỢC BẤT ỔN TẠI ĐÓ

Lịch sử đã để lại cho ta nhiều bài học để đời, mâu thuẫn song phương luôn dẫn đến chỗ một thế lực khác từ bên ngoài nổi lên nhằm giải quyết các tranh chấp song phương . Trong thời cổ đại tại Trung Đông, Assyrian với Ai Cập tranh chấp đã dẫn đến chỗ bị Persia nổi lên thanh toán cả hai để hình thành đế chế Achaemenid lừng danh một thời . Đế chế vĩ đại do Alexander the Great thành lập sau đó cũng từng bước phải nhường chỗ cho đế quốc La Mã . La Mã suy tàn để hình thành nhiều quốc gia Âu Châu ngang tài ngang sức để dẫn đến chỗ Âu Châu lâm vào chiến tranh triền miên suốt thời Phục Hưng cũng như Trung Cổ . Âu Châu tự mình chẳng thể giải quyết được mâu thuẫn của mình cho đến khi nước Mỹ Hội Kín can thiệp trực tiếp mới giải quyết được vấn đề Âu Châu .

Á Châu không có biệt lệ nào cả . Hán tộc bành trướng theo đúng truyền thống của mình là điều chẳng xa lạ gì đối với những ai để tâm quan sát lịch sử Á Châu trong lâu dài . Hán tự coi là chủ của toàn Á Châu xuất phát từ tranh chấp Việt Hán từ thời thái cổ để lại , xuất phát từ cuộc xâm lăng của Mông Cổ trên toàn cõi lục địa Á Châu trải dài đến Trung Đông và Nam Âu thuộc Nga , xuất phát từ chỗ bị Phương Tây khinh mạt trong thời thuộc địa . Dù sao, so với các quốc gia khác tại Á Châu đã bị cái bóng của Hán che khuất trong thời gian lâu dài của lịch sử vùng này . Tại Á Châu này cũng chỉ có hai quốc gia không bị Âu Châu biến thành thuộc địa là Nhật và Hán, mặc dù Hán đã bị Liệt Cường xâu xé bắt phải mở tô giới đối với một số cảng dọc duyên hải , hai lần nha phiến chiến tranh khiến Hán phải mở cửa để người Anh bán thuốc phiện sản xuất từ Afghanistan , Hán phải bồi thường chiến phí . Hán cũng đã từng bị Nhật xâm lăng phải nhượng đất đai cùng vùng ảnh hưởng trên bán đảo Triều Tiên khi Nhật nương theo thế của Anh thông qua các ưu đãi tài chánh kỹ thuật để tạo dựng sức mạnh trong vùng Đông Bắc Á, cản chân Nga đi ra biển, xâm chiếm lãnh thổ Hán trong đầu thế kỷ 20 .


Nhưng chủ quyền của Hán nói chung vẫn tồn tại trong thực tế, Hán đã biết lợi dụng cơ hội đó để học hỏi phương Tây, đưa người đến định cư tại Đông Nam Á cũng như nhiều nơi trên thế giới để hình thành nước Hán hải ngoại . Điều này làm cho Hán có được những hiểu biết về phương tây đầy đủ hơn so với các quốc gia khác vẫn tranh đua với Hán ở phía Nam nay thuộc Đông Nam Á . Đông Nam Á lại là vùng không có quốc gia nào đủ hùng mạnh để làm đối trọng với Hán trên vùng Viễn Đông . Quốc gia có thể làm đối trọng với Hán duy nhất tại Á Châu Lục Địa là Ấn Độ nằm phía tây Hy Mã Lạp Sơn không tiện giao thông đi lại nên hai khối này chưa hề có dịp đụng nhau trong suốt lịch sử lâu đời của Á Châu . Nhưng Ấn Độ lại không phải là quốc gia được hình thành dựa trên cấu trúc chính quyền trung ương hùng mạnh như Hán đã đạt được từ trước thời nhà Hán (tức là nhà Tần) . Tại đó (Ấn Độ) mỗi vùng một thời nổi lên chi phối các vùng khác để hình thành kiểu chính quyền trung ương lỏng lẻo , trong khi các nhà nước nhỏ vẫn tồn tại một cách độc lập . Điều này làm cho nước Ấn dễ trở thành kiểu nhà nước Liên Bang hơn so với Hán .

Theo ghi nhận được Concise History of the World ghi lại thì năm 1800 dân số Hán được ghi nhận là 300 triệu , năm 1850 dân số thuộc đế quốc nhà Thanh được ghi nhận là 420 triệu , năm 1854 thì người Hoa đầu tiên tên là Yung Wing đã tốt nghiệp trường Yale . Các con số nêu trên chỉ dựa trên vùng lãnh thổ Hoa Lục do nhà Thanh cai trị hay bao gồm cả các vùng phụ cận mà Thanh Triều tự coi là lãnh thổ của mình là điều không được nói tới rõ ràng . Nhưng như lời Napoleon đã nói : “ Trung Hoa thức giấc, thế giới rung chuyển ” . Rất đúng như vậy, các sự kiện nêu trên là bước khởi đầu để báo hiệu một Trung Hoa thức giấc . Và như lịch sử toàn vùng đã để lại : “ một Hán-Hoa thức giấc thế nào cũng đụng độ với lân bang , chính yếu là với Việt Nam ” .

Lịch sử Á Châu cho đến cuối thế kỷ 18 vẫn là lịch sử của các cuộc tranh chấp giữa Việt với Hán . Tình hình thay đổi khi văn minh Phương Tây xuất hiện chi phối chính tình trong vùng . Nhiều nước khác vẫn giữ thái độ chống phương Tây cực đoan nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội tìm hiểu về văn minh phướng Tây một cách có hệ thống (như trường hợp nhà Nguyễn với Ông Nguyễn Trường Tộ và Bùi Viện chẳng hạn) , nên hiểu biết về thế giới bên ngoài thực tế chậm hơn Hán đến mấy chục năm .

Nhà Thanh nổi lên cai trị Hoa Lục đã đẩy rất nhiều tầng lớp cựu quan lại nhà Minh phải đi lưu vong tại Đông Nam Á , từ Đông Nam Á khi thế lực phương Tây xuất hiện trong vùng, những di dân này trở thành những người đầu tiên hợp tác với các thế lực cai trị phương Tây về thương mại, tài chánh . Thế là nước Tầu hải ngoại hình thành , tiếp tục mở rộng đến khắp thế giới, để đặt nền tảng cho chủ nghĩa bành trướng Hán Tộc thời cận đại (dù CS hay Quốc Dân Đảng cũng thế thôi) . Mạng lưới toàn cầu này của Hoa Kiều Hải Ngoại đã thúc đẩy Tôn Văn hình thành chủ nghĩa Tam Dân để vừa đối phó với nhà Thanh đang suy tàn vừa đáp ứng đối với thế lực Phương Tây . Thực ra Tam Dân là khẩu hiệu chính trị có mục đích hứa hẹn cho người dân Trung Hoa về một nước Hán Hoa mạnh về mọi mặt (Dân Tộc) trên căn bản xã hội dân chủ để đem lại đời sống ấm no cho nhân dân (Dân Sinh) , chứ chẳng phải là học thuyết gì cả như nhiều người vẫn hằng suy tôn .

Mao Trạch Đông đến với chủ nghĩa Cộng Sản tại Nga là biết xử dụng mâu thuẫn giữa Nga với Tây Âu , dựa trên nhận định mang tính chiến lược là : “ kẻ thù của kẻ thù ta là bạn ta ” . Mặt khác Nga với Hoa liền biên giới sâu trong nội địa, như vậy Phương Tây không thể can thiệp nhằm hủy diệt sức mạnh của Mao được . Mao coi chủ nghĩa Cộng Sản là công cụ củng cố sức mạnh cho Hán Hoa trong tham vọng bành trướng lãnh thổ để từng bước tới tới việc thôn tính thế giới . Cần lưu ý rằng, một số ít người Cộng Sản thân cận với Mao đều là những người được học hỏi kỹ lưỡng tại Âu Châu như Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình đều du học tại Pháp trước khi tham gia thành lập Đảng CS tầu . Do thế, họ hiểu biết về thế giới hơn hẳn các lãnh tụ chính trị tại các nước Đông Nam Á . Cho nên Mao coi Tưởng chỉ là công cụ của Phương Tây, nên không triệt để thi hành chủ trương bành trướng Hán Tộc được . Mao quyết liệt chống Tưởng là vậy, vì Mao tin rằng Tưởng không biết thương thuyết với Phương Tây dựa trên sức mạnh nên dễ chấp nhận tương nhượng làm mất quyền lợi chiến lược của Hán . (thương thuyết phải dựa trên sức mạnh để hậu thuẫn cho các tương nhượng quyền lợi) .

Sự việc Mao bành trướng kết hợp với chủ trương bành trướng của Nga được Stalin thi hành triệt để là cội nguồn của chiến tranh lạnh . Phương Tây mà cụ thể ở đây là Mỹ chủ trương diệt chủ nghĩa bành trướng Nga trước , sau đó đến chủ nghĩa bành trướng Hán Hoa . Việc này ta đang chứng kiến các diễn biến chính trị quân sự đang sảy ra trên toàn cõi Á Châu .

Chiến tranh tại Âu Châu làm cho Âu Châu suy yếu đi , đó là cơ hội để Hán cũng như Hồi Giáo nổi lên tạo dựng sức mạnh nhằm cố khôi phục lại vị trí của mình đối với Phương Tây, dựa trên khối dân số mang tính áp đảo để từng bước dẫn tới mục tiêu thống trị toàn cầu của hán kết hợp với Iran cũng là quốc gia có truyền thống xâm lăng suốt từ thời cổ đại đến giờ này . Tham vọng bành trướng đó tất yếu sẽ dẫn đến chỗ đụng độ giữa Hán với Ấn Độ ở phía Tây cũng như với Nga ở phía Bắc, với các quốc gia Đông Nam Á ở phía Nam .

SỰ HÌNH THÀNH LỰC LƯỢNG

Khi Mỹ tham chiến trong thế chiến II, Mỹ trực tiếp điều hành hai mặt trận tại Âu Châu cũng như tại Thái Bình Dương . Sức mạnh của Mỹ vào thời điểm đó đã vượt xa Âu Châu cũng như Nhật Bản về mọi mặt . Ngày nay Âu Châu cũng như Nga về căn bản đã thống nhất cùng với Mỹ để tạo dựng lực lượng Đồng Minh thực sự trong lâu dài chứ không phải chỉ là đồng minh ngắn hạn như kiểu hợp tác Nga Mỹ hồi thế chiến II . Mặt khác, khi Tầu bành trướng trên bộ, trên biển, dựa trên sức mạnh kinh tế (Tầu mới tuyên bố vượt qua kinh tế Nhật, để trở thành nền kinh tế đứng hạng hai trên thế giới ) cũng như sức mạnh của đạo quân thứ năm nay có mặt trên khắp thế giới, nhất là vùng Đông Nam Á hiện do Tầu kiểm soát về kinh tế , tài chánh . Việc này ngay tức khắc tạo ra mối quan ngại của các quốc gia trong vùng liên quan đến chủ trương xâm thực của Tầu nhắm vào vùng Đông Nam Á , nên các quốc gia Đông Nam Á phải gấp rút tìm kiếm đồng minh để ngăn chặn đà bành trướng của Tầu xuống phía nam .

Tầu bành trướng sẽ tạo ra đe dọa đối với Ấn Độ, với Úc, với Nhật cũng như Nam Triều Tiên . Khi Tầu tuyên bố chủ quyền trên toàn vùng biển Đông của nước ta . Việc đó ngay tức khắc vi phạm luật quốc tế về biển cả . Mỹ cũng như Âu Châu kể cả Nga chẳng thể đứng im nhìn Tầu đe dọa an ninh toàn vùng . Thế lực Đồng Minh nay được mau chóng hình thành dựa trên sự kết nối hàng loạt quốc gia bị Tầu đe dọa quyền lợi sinh tử theo cách trực tiếp hay gián tiếp . Trên tầm nhìn rộng hơn nữa liên quan đến toàn vùng Thái Bình Dương , các nước bên bờ tây của Châu Mỹ cũng chẳng thể đứng ngoài cuộc được , các nước Âu Châu cũng chẳng thể làm ngơ trước hiểm họa do Tầu cố tình gây ra đối với thế giới .

Đó là những gì ta đã chứng kiến trong thời gian chưa đầy ba tháng qua khi chiến hạm Cheonan của nam triều Tiên bất ngờ bị tầu ngầm của Bắc Triều Tiên đánh đắm vào cuối tháng ba vừa qua trên vùng biển Hoàng Hải thuộc lãnh hải còn đang tranh chấp giữa hai miền Nam, Bắc Triều Tiên . Biến cố này cảnh tỉnh các nước trong vùng Đông Nam Á về hiểm họa do Hán gây ra đối với an ninh toàn Á Châu trên lục địa cũng như trên biển . Họ phải quyết định một thái độ lập trường cụ thể với Tầu , họ phải chọn một đồng minh trụ cột để tập hợp lực lượng nhằm đối phó hữu hiệu với các đe dọa xuất phát từ Bắc Kinh . Lực Lượng Đồng Minh Lớn được hình thành là vậy .

Như thế, xét về tương quan lực lượng thì Hán ngoài dân số trên 1.3 tỷ người được xử dụng như công cụ tràn ngập lân bang khi Hán bị đẩy vào chân tường . Hán tự coi đây là kế sách tối hậu theo kiểu “ bất chiến tự nhiên thành ” . Một khi Hoa Lục có bị tan hoang do chiến tranh với Mỹ, Nga, Ấn Độ cũng như Nhật trong trận chiến toàn diện bằng vũ khí nguyên tử với hỏa tiễn , thì các nước đối đầu với Hán cũng bị sứt mẻ ở mức độ nhất định . Khi đó số dân Hán cũng đã tràn ngập các lân bang rồi (kể cả vùng Siberia hay Trung Á cũng như Đông Nam Á) . Cho dù có thua trận chiến này thì thực tế, Hán cũng đã chiếm hoàn toàn vùng lãnh thổ xung quanh Hán, diện tích nước Hán sẽ mau chóng tăng lên ít nhất 3 triệu Km vuông đất chỉ trong một coup chiến tranh do Hán cố tình gây ra, và sẽ tiếp tục mở rộng theo cấp số nhân sau đó . Một khi đã chiếm xong Đông Dương cùng với Thái Lan, Miến Điện thì con đường đến Ấn Độ Dương được mở rộng thênh thang cho Hán bành trướng .

Hán tự biết là đang bị vây hãm đến mức tối đa bởi nhiều lực lượng Đồng Minh được kết hợp bởi nhiều quốc gia có chủ quyền . Hán đề ra nhiều sách lược khác nhau, tựu chung vẫn là từ từ gặm nhắm các lân bang thông qua mọi hình thức đầu tư thương mại, di dân để tạo dựng thế lực thân Hán tai chỗ, kết hợp với đường lối thương mại lươn lẹo thông qua các công ty khai thác tài nguyên, thực ra là các đội quân xâm lăng trá hình với sự yểm trợ bởi lực lượng quân sự để đe dọa tinh thần các nước lân bang trong kế hoạch xâm lăng mềm . Tuy vậy Hán sẵn sàng đi vào chiến tranh toàn diện kết hợp với di dân ồ ạt chiếm khắp vùng Đông Nam Á cũng như các hải đảo tại Thái Bình dương thuộc dẫy hải đảo thứ hai mà Hán đã dự trù .

Trước hiểm họa đó, Hoa Kỳ cũng như Đồng Minh đâu còn chọn lựa nào khác ngoài việc củng cố vững chắc khối Đồng Minh rộng lớn, sẵn sàng đánh trả Hán toàn diện về mọi mặt . Cuộc chiến này quả thực vô tiền khoáng hậu là vậy . Điều kiện hiện nay khi so chiếu với thế chiến II có những khác biệt nhất định , trong thế chiến II phe Đồng Minh chỉ hình thành sau khi cả Đức, Ý, Nhật tuyên chiến với Mỹ mà thôi . Vào lúc này Hán không hề tuyên chiến với Mỹ một cách chánh thức, hai phía vẫn đối thoại về những vấn đề có thể đối thoại được, ấy thế mà Mỹ lại thúc đẩy hình thành phe Đồng Minh thì điều này cũng lạ lắm . Như vậy đằng sau đó phải có những vấn đề thật sự nghiêm trọng đang sảy ra trong mối quan hệ Hoa, Mỹ .

DIỄN BIẾN TÌNH HÌNH

Sự kiện Cheonan được coi như giọt nước làm tràn ly, lần đầu tiên từ sau thế chiến II đến nay, một chiến hạm bị đánh đắm bởi lực lượng đối nghịch . Thế giới phải phản ứng đúng mức thôi . Nếu không phản ứng đúng cách các quốc gia hung đồ như Iran chẳng hạn có thể đánh đắm chiến hạm các nước khác di chuyển trên vùng biển quốc tế (một tầu dầu của Nhật mới bị tấn công nhẹ trong vùng biển Hormutz thuộc vịnh Persia) . Việc này dẫn đến chỗ hải quân Mỹ cùng với Nam Triều Tiên tập trận trên vùng biển Hoàng Hải phía đông Nam Triều Tiên, vốn được coi là vùng biển nhạy bén đối với an ninh của Tầu . Như vậy việc tập trận này ngoài việc gởi đến cho Bắc Triều Tiên một tín hiệu mạnh mẽ . Mỹ còn gởi đến cho Bắc Kinh một thông điệp rõ ràng : “Mỹ trở lại Á Châu” . Chính thông điệp này đã làm cho Bắc Kinh cảm thấy ngột ngạt . Bắc Kinh cảm nhận được rằng : Mỹ bắt đầu coi Bắc Kinh là kẻ thù trong thực tế . Bắc Kinh không ngờ rằng mối quan hệ Mỹ-Hoa lại tồi tệ đi mau chóng như vậy .

Sự kiện Cheonan làm nổ bùng các tranh chấp tại vùng Biển Đông nước ta , cả vùng này Tầu tự coi là lãnh thổ thuộc tuyến hải đảo thứ nhất, được Tầu gọi là vùng biển lưỡi bò . Như thế, an ninh toàn vùng thực tế bị đe dọa nghiêm trọng và rất cụ thể bởi Hán . Hôm nay chiến hạm Nam Triều Tiên bị đánh đắm mà không bắt được tận tay kẻ thù vì Bắc Triều Tiên vẫn chối , ngày mai chiến hạm Mỹ bị đánh đắm theo kiểu như vậy thì sao . Một khi trật tự hàng hải bị đe dọa sẽ dẫn đến biết bao hệ lụy khác tiếp theo sau , như vậy thế giới này thực tế lâm vào thế bị khủng bố bởi quốc gia chứ không phải chỉ là các tổ chức vô chính phủ như al Queda chẳng hạn . Suy rộng thêm nữa ta lại thấy các quốc gia khác cũng chứa chấp các hành vi như vậy, đối với trật tự thế giới thì  hệ lụy đối với thế giới là không thể lường được, do thế Mỹ cũng như các đồng minh trong vùng phải hành động quyết liệt là vậy .

Xét trên  cục diện toàn vùng thì, trước tham vọng bành trướng của Bắc Kinh nay ra mặt cấu kết với Iran chủ trương Hồi Giáo Cực Đoan nhằm thao túng vùng Nam Á, thông qua các công cụ tại Pakistan cũng như các nhóm Maoist tại Ấn Độ cũng như các nước nằm ở triền phía Tây của Hy Mã Lạp Sơn, đe dọa an ninh của Ấn Độ trên biển cũng như trên đất liền . Iran là quốc gia thuộc đế chế Achaemenid cách nay trên 2500 năm, có dân số lớn nhất trong vùng Trung Đông ; từ thời cổ đại đã có các tranh chấp với Thổ Nhĩ Kỳ cũng như Ai Cập nhằm dành quyền kiểm soát Lưỡng Hà, đã từng nhiều lần thôn tính Afghanistan cũng như Pakistan . Nay cũng nuôi tham vọng lớn cố khôi phục lại hào quang khi xưa . Do thế sự cấu kết giữa Tầu với Iran là điều hiển nhiên . Điều này giải thích tại sao trên 90,000 trang tài liệu liên quan đến cuộc chiến tại Afghanistan được phổ biến trên mạng điện toán mới đây . Việc thẩm lậu ấy chỉ muốn nhấn mạnh đến một điều duy nhất : “chính là vai trò của Pakistan trong mối liên hệ giữa Tầu với Iran, cụ thể là giữa Pakistan với Al Queda ” .

Tại sao Pakistan hành động kiểu hai ba mang như vậy ? Thật rõ ràng là Pakistan muốn dụng thế của Tầu để gây sức ép với Ấn Độ trong việc đòi chủ quyền vùng Kashemir nơi có đa số dân là người gốc Hồi Giáo . Điều này giải thích tại sao cuộc họp mới đây giữa ngoại trưởng hai nước Pakistan và Ấn Độ đã thất bại , vì Pakistan không muốn tiếp tay giải quyết vấn đề Afghanistan . Trong bài viết trước đây , tôi đã nói : “cuộc chiến tại Afghanistan phải thất bại mới đúng, vì các nước Hồi Giáo liên quan đâu có muốn hợp sức giải quyết các vấn đề của thế giới Hồi Giáo nói chung” . Xét cho cùng ra : Các quốc gia Hồi Giáo đều là các quốc gia thất bại ở những mức độ khác nhau (failed nation) , nếu không có sự can thiệp từ bên ngoài để từng bước cải tiến tinh thần Hồi Giáo nói chung, nhiên hậu đưa các quốc gia Hồi Giáo vào con đường dân chủ tự do thật sự , thì Hồi Giáo luôn là mối đe dọa đối với an ninh toàn cầu .

Tại vùng Viễn Đông, trước tham vọng bành trướng công khai của Tầu trên biển cũng như trên lục địa . Không nước nào tại Đông Nam Á đủ sức ngăn chặn đà bành trướng của Tầu trong vùng . Giữa Đông Nam Á với Đông Bắc Á, về mặt chiến lược Đông Nam Á chi phối an ninh toàn cầu , từ Nam Đại Tây Dương đến Ấn Độ Dương đến Thái Bình Dương , cho nên nỗ lực chính của Tầu tập trung vào đây được coi như mũi nhọn tấn công chính . Do cục diện trong vùng thay đổi mau chóng như ta đã chứng kiến trong mấy tháng qua, nên các nỗ lực ngoại giao từ phía Mỹ và các đồng minh đã được thúc đẩy mạnh mẽ như chưa từng sảy ra trong quá khứ . Các nỗ lực ngoại giao nhằm hình thành lực lượng toàn vùng chống lại chủ trương bành trướng của Bắc Kinh dựa trên chủ điểm : Quốc Tế Hóa vấn đề Biển Đông .

Vấn đề Biển Đông liên hệ mật thiết đến an ninh của VN vốn được coi là khu vực chiến lược quan yếu nhất chi phối an ninh toàn vùng cũng như toàn cầu . Việc sắp xếp để VN nắm giữ vai trò Chủ Tịch Luân Phiên của Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á đã được dự kiến từ gần mười năm trước , trùng hợp với thời điểm Tầu tung đòn đe dọa xâm lăng Á Châu trên mọi mặt trận trên lục địa cũng như trên biển . Trước các đe dọa cụ thể đó, các nước Á Châu tự biết là không thể một mình đương cự với Tầu nên đã thống nhất chủ trương yêu cầu Mỹ cùng kết hợp với NATO trở lại Á Châu để ổn định tình hình . Chủ trương này rất phù hợp với ước muốn của nhân dân các nước Á Châu, đặc biệt tại Đông Nam Á , là nơi hiện bị Tầu đe dọa nặng nề nhất và cũng là nơi hiểu thấu các lợi ích của dân chủ với thị trường tự do trong việc tạo dựng một xã hội thịnh vượng , như đã được chứng minh trong hơn 40 năm qua .

Các hoạt động ngoại giao của Mỹ trong thời gian hơn năm qua là sự tiếp nối các hoạt động ngoại giao từ thời Ông Bill Clinton đến Ông Bush để lại, chủ yếu thuyết phục VNCS biết nhìn thấy các hiểm họa tiềm ẩn để thực hiện các thay đổi nhằm đáp ứng với tình hình như đang diễn biến hiện nay . Vấn đề quốc tế hóa Biển Đông là chủ đề an ninh quan trọng nhất đối với Đông Nam Á, VN trong vai trò làm Chủ Tịch luân phiên hiện nay, đồng thời cũng là nước bị Bắc Kinh trực tiếp đe dọa nặng nhất , nên là quốc gia đứng mời họp Diễn Đàn An Ninh khu vực tại Thăng Long mới đây quả là rất phù hợp . Để hỗ trợ cho cuộc họp của Diễn Đàn khi Bà Ngoại Trưởng Mỹ tuyên bố chủ trương an ninh mới của Mỹ đối với vấn đề Biển Đông(tức là Quốc Tế Hóa ) , Mỹ điều ba tiềm thủy đỉnh loại Ohio đến ba địa điểm khác nhau là Pusan thuộc Nam Triều Tiên, Subic bay thuộc Phi Luật Tân, Diego Garcia thuộc Ấn Độ Dương . Sự xuất hiện của ba tiềm thủy đỉnh nguyên tử chiến thuật này tạo thành một tam giác mang ý nghĩa bao vây Tầu về mọi hướng trên biển .

Mỹ điều động một lực lượng hải quân hùng mạnh đi vào Ấn Độ Dương thông qua kinh đào Suez như biểu tượng nhấn mạnh đến an ninh khu vực vịnh Persia nhắm vào Iran . Mỹ tiếp tục mở rộng việc tập trận mỗi tháng từ nay đến cuối năm với quân đội Nam Triều Tiên . Điều này cho thấy, cuộc tập trận tại Hawai và vùng phụ cận nhắm vào vùng biển Guam đến Coral Sea (bắc Úc) chắc chắn sẽ được tiếp tục song song với các cuộc tập trận với Nam Triều Tiên . Các chuẩn bị như vậy nhằm hoàn thiện phối hợp tác chiến đa phương nhằm đối phó với các đe dọa từ hải cũng như không quân Tầu . Đối lại với hàng loạt các diễn biến mới nhất như vậy, Bắc Kinh ra lệnh thực hiện một cuộc tập trận bắn đạn thật trong vùng biển đông của ta lên đến vùng Hoàng Hải trực tiếp dưới quyền của Tư Lệnh Hải Quân Tầu (vùng biển Hoàng Hải hiện đang bị dầu tràn trên quy mô lớn hơn dự kiến ban đầu của Bắc Kinh, cũng như hàng loat thiên tai khác nữa ) .

Đối với Ấn Độ, lịch sử Ấn Độ luôn để lại nhiều bước ngoặC rất bất ngờ . Tuy chủ trương bất bạo động nhưng họ cũng có thể bất ngờ trở thành thế lực mạnh . Việc này được minh chứng rất rõ khi triều đại Chandragupta Maurya mau chóng trở thành thế lực hùng mạnh thống nhất vùng này vào năm 325 BC khi Alexander Macedoine thất bại trong cuộc trường chinh nhắm vào vùng Nam Á, trùng hợp với cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tầu . Đến thời vua Ashoka năm 250 BC phát triển cực thịnh song song với thời nhà Tần, nhà Hán bên Tầu . Lịch sử Ấn Độ sau này cũng luôn chứng minh như thế : mỗi khi Hán mạnh lên thì Ấn cũng mạnh lên , mặc dù hai phía chưa hề đụng độ trực tiếp trong quá khứ . Thật cũng trớ trêu là mỗi khi Hán mạnh lên thì Việt cũng mạnh lên để cản chân Hán . Ba khối này : Việt, Hán, Ấn dường như có cái nghiệp phải như thế để bẻ gẫy tham vọng bành trướng của Hán Hoa . Truyện xưa đã thế, truyện nay cũng vậy . Việc kết thân giữa Việt với Ấn là tất yếu lịch sử . Cả lịch sử của Việt lẫn Ấn về mặt văn hóa và văn minh cũng như địa lý chiến lược cũng xứng đáng để kết thân với nhau trong canh bài chiến lược này .

Với Nga thật rõ ràng là nay cảm nhận được hiểm họa Hán Hoa một cách cụ thể . Nga cần hành động quyết liệt đúng theo truyền thống của mình nhằm bảo toàn lãnh thổ ; đồng thời chuẩn bị cho thời đại Toàn Cầu Hóa ngay trên lãnh thổ Nga, để cả vùng Siberia rộng lớn đó được khai thác có trật tự trong khuôn khổ luật pháp thế giới do Chính Quyền Toàn Cầu quy định sau này . Cho nên việc Tầu quyết chiếm vùng này sẽ không bao giờ được thế giới chấp nhận . Song song với các cuộc tập trận giữa Mỹ với các đồng minh trong vùng Á Châu, Nga cũng tiến hành tập trận trên đất liền thuộc vùng Siberia . Về mặt trận trên biển, Nga không có gì phải âu lo về sự hiện diện hùng mạnh của hải quân Mỹ trong vùng , Nga cần tập trú vào vấn đề an ninh trên lục địa trải dài từ Trung Á đến vùng Viễn Tây thuộc Siberia thuộc Nga . Trong điều kiện hiện nay của Á Châu Lục Địa , việc Nga tăng cường quân đội trên quy mô lớn trong vùng phía đông Ural dường như là một thực tế rõ ràng khi tai ương trong vùng này sẽ gia tăng mạnh trong thời gian sắp tới đây . Như vụ cháy đang sảy ra tại vùng trung Nga đã thiêu hủy nhiều trăm căn nhà là rõ rệt ; tai ương chưa chấm dứt ở đấy , còn nhiều tai ương khác sẽ xảy ra trong vùng Sibia trong tương lai tới đây .

Thực tế, không ai có thể dự liệu được tai ương do thiên nhiên gây ra đối với trái đất này . Các tai ương đó đều có liên hệ theo cách nào đó do việc khai thác thiên nhiên một cách vô trách nhiệm do con người gây ra . Lũ lụt tại Hoa Nam, lũ lụt tại Pakistan đã làm cả ngàn người chết, lượng mưa lên đến 300 mm trên vùng lãnh thổ Pakistan chắc chắn sẽ gây ra các thảm họa đối với trên 30,000 con đập được xây dựng vô trách nhiệm tại Tầu . Việc này sẽ gây ra thảm họa đối với các quốc gia ở hạ nguồn , quan trọng nhất chính là con đập khổng lồ Tam Khẩu . Không ai thực sự biết được được hậu quả sẽ ra sao một khi con đập này bị vỡ hoặc lượng nước quá lớn khiến Bắc Kinh phải xả nước để cứu nguy con đập . Vụ tràn dầu tại vùng biển Hoàng Hải thuộc Tầu quả thực rộng lớn hơn rất nhiều so với những gì mà Tầu chánh thức công bố, để dẫn đến chỗ Tầu không thể kiểm soát được lượng dầu tràn ra biển . Trong lâu dài ảnh hưởng sâu rộng đến hệ sinh thái trên vùng Hoàng Hải . Một khi dầu lan đến các nước láng diềng của Tầu phá hủy sinh thái các nước ấy, thì ai chịu trách nhiệm tẩy sạch ; Tầu có chịu trách nhiệm bồi thường phí tổn do phá hủy môi sinh cũng như tẩy sạch hay không ? Trong một diễn biến khác cũng rất đáng quan tâm khi nhà máy hóa chất tại Quảng Đông bị nổ mới đây, đã phóng khí độc vào không gian . (ai chịu trách nhiệm ? ) .

Những việc như vậy xảy ra đều do Tầu bất chấp các quy luật an toàn tối thiểu do việc gia tăng sản xuất tối đa trong khi lại giảm tối đa việc bảo trì cũng như giữ cho máy móc hoạt động trong giới hạn an toàn mà điều kiện kỹ thuật đòi hỏi . Những vụ nổ như vậy sẽ còn xảy ra dài dài tại Tầu trong thời gian tới đây . Một nước Tầu vô trách nhiệm đối với dân Tầu, cũng là vô trách nhiệm đối với các lân bang cũng như thế giới . Như thế giải quyết vấn đề Á Châu, thực tế chính là giải quyết vấn đề Hán Hoa chủ trương tàn phá thế giới một cách vô trách nhiệm để nhiên hậu đặt ra luật pháp toàn cầu quy định các biện pháp an toàn công nghiệp được coi là nguy hại đối với môi sinh và thế giới (toxic) .

Á Châu thực tế đang chứng tỏ rằng : Á Châu không thể tự mình giải quyết được vấn đề của chính Á Châu . Tình hình này cũng giống như Âu Châu vào thế kỷ 20 , Âu Châu cũng đã từng thất bại trong việc giải quyết các vấn đề của chính Âu Châu, nên Mỹ bắt buộc phải can thiệp để hình thành lực lượng Đồng Minh giải quyết tranh chấp tại Âu Châu . NATO Phương Tây được thành lập để ổn định tình hình Âu Châu là vậy ; trên nền tảng đó, các bất đồng giữa Âu Châu với nhau được giải quyết để vĩnh viễn chấm dứt chiến tranh tại Âu Châu để thống nhất Âu Châu về một mối . Á Châu ngày nay cũng không mấy khác biệt . Muốn giải quyết tận gốc rễ bất ổn tại Á Châu ; Mỹ cũng như Âu Châu không còn chọn lựa nào khác ngoài việc thành lập và củng cố Khối Đồng Minh Lớn trên quy mô toàn cầu, bao gồm các quốc gia tự do dân chủ nằm trên hai bờ Thái Bình Dương kết hợp với các quốc gia Âu Châu cũng như Ấn Độ . Các nhà làm chính sách toàn cầu gọi đó là NATO Phương Đông, như lời bà Thủ Tướng Đức Angela Mackel nói cách nay trên sáu tháng .

Á Châu quá rộng lớn, quá phức tạp về văn hóa chủng tộc, nối liền với Âu Châu lục địa, nối liền với Châu Mỹ qua Thái Bình Dương . Lục địa Á Châu lại gồm nhiều quốc gia thất bại (Failed Nation) nên không thể tự mình giải quyết các vấn đề của Á Châu được . Do thế, sự hiện diện của Mỹ với Âu Châu là thực sự cần thiết nhằm bảo đảm cho hòa bình tại Á Châu . Chủ hướng này hiện được nhiều nước Á Châu dân chủ, tự do ủng hộ nhiệt tình . Cho nên việc Âu Mỹ trở lại Á Châu vào thời điểm này, tuyệt đối không thể coi như tương đồng với thời kỳ thực dân chủ nghĩa vào thế kỷ 19 được .

Vì :

a / Chủ nghĩa thực dân đã bị loài người vĩnh viễn gạt bỏ sau thế chiến II rồi .

b / Á Châu nay bao gồm các quốc gia dân chủ có chủ quyền hoàn toàn .

c / Việc Âu Mỹ trở lại Á Châu là đáp ứng đúng với nhu cầu thiết thân của chính đa số người dân Á Châu trong ước vọng muốn có được đời sống an hòa và sung mãn hơn.

d / Giải quyết vấn đề Á Châu được coi là mấu chốt trong thế kỷ 21 này, nhiên hậu mới thống nhất nhân loại về một mối được . Khối Đồng Minh Lớn hoàn toàn có đủ chính nghĩa để dẹp tan chủ nghĩa bành trướng Hán Tộc do một nhóm nhỏ tại Bắc Kinh chủ trương .

Các chuẩn bị hiện nay xét về tổng thể đang diễn biến đúng như thế khi Bà Ngoại Trưởng Mỹ chánh thức tuyên bố tại Diễn Đàn An Ninh khu vực tại Hà Nội tuần qua là : Mỹ có quyền lợi tại Á Châu, Mỹ ủng hộ chủ trương Quốc Tế Hóa tranh chấp tại Biển Đông do Tầu gây ra, Mỹ không đứng về phe nào trong cuộc tranh chấp này . Dĩ nhiên Tầu phản ứng quyết liệt khi cho Bộ Trưởng Ngoại Giao cũng như Quốc Phòng Tầu đều lên tiếng quyết liệt chống lại chủ trương này của Mỹ , Bắc Kinh vẫn khăng khăng xác định chủ quyền không thể tranh cãi trên toàn vùng biển Đông . Lập trường của Bắc Kinh như thế nên được coi là : Tầu công khai xâm lăng các quốc gia có chủ quyền trên toàn vùng, thế giới đâu còn chọn lựa nào khác ngoài việc gia tăng tối đa các nỗ lực vây hãm Tầu về mọi mặt để bẻ gẫy tham vọng bành trướng của Bắc Kinh. Việc hình thành Khối Đồng Minh Lớn quả thực quá cần thiết vào thời điểm này của lịch sử .

Để đáp ứng với các lời kêu gọi đó , các thành viên trụ cột của Âu Châu đã đáp ứng tích cực ngay tức khắc khi : Thủ Tướng Anh Cameron đến thăm Ấn Độ - vốn là cựu thuộc địa của Anh - để minh định lập trường của Anh là : “ nước Anh sẵn sàng nhận trách nhiệm cùng với người Nga trên vùng Nam Á ” . Trong một diễn biến khác, Bộ Trưởng Quốc Phòng Pháp Herve Morin đến thăm VN ngày 26-7-2010 để bàn về hợp tác quân sự Pháp-Việt , việc này cho thấy Pháp cũng sẽ nhận lãnh một vai trò tại Đông Dương vốn là cựu thuộc địa Pháp . Mặt khác Giáo Hoàng đã cử nhiệm Đặc Sứ Tòa Thánh không thường trực tại VN là Linh Mục Tổng Quản Hội Thừa Sai Paris, Pháp (theo tin từ WWW Nữ Vương Hòa Bình) . Việc này không đơn giản như nhiều người nghĩ . Chỉ xin lưu ý quý bạn đọc về lời phát biểu trước đây của tôi liên quan đến vụ Đức Cha Kiệt cũng như Giáo Hội Thiên Chúa Giáo VN là : Các hoạt động của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo VN báo hiệu chiều hướng đến mấy trăm năm tới đối với tương lai của nước ta .

Tầu chủ trương bành trướng, xâm thực lân bang là điều đã trở thành lời nguyền của Hán, chúng chẳng thể dễ dàng từ bỏ . Thời kỳ thực dân tại Á Châu đã tạo điều kiện cho Tầu bành trướng mềm xuống vùng Đông Nam Á cũng như trên toàn thế giới . Chiến tranh lạnh đã tạo cơ hội để Bắc kinh củng cố sức mạnh để chuẩn bị lực lượng xâm lăng toàn vùng, đe dọa an ninh thế giới một cách có hệ thống . Thế giới đã dành quá nhiều thời gian cũng như kiên nhẫn để thuyết phục Bắc Kinh từ bỏ tham vọng của mình . Bắc Kinh một mực cự tuyệt . Như thế các nước dân chủ tự do tại Á Châu đâu còn chọn lựa nào khác ngoài việc hợp tác với thế giới để giải quyết dứt khoát vấn nạn Hán Hoa . Chiến tranh hiện nay rất vi diệu, các kinh nghiệm cũ chẳng thể ứng dụng được , các kế sách chẳng thể để lộ ra ngoài . Nhưng các diễn biến hiện nay cho thấy : Tầu sẽ bị khốn khổ vì chính lối hành động vô trách nhiệm do chính Tầu tự gây ra cho mình đối với tự nhiên .

Khi Bắc Kinh không thể giải quyết được vấn đề nội bộ, như truyền thống của Hán để lại, chúng sẽ tung lực lượng xâm lăng các lân bang bằng đủ mọi cách khác nhau . Thế giới cũng như các nước Á Châu cần cảnh tỉnh trước âm mưu này của Tầu . Một nước Tầu bị phân rã mới bảo đảm an ninh lâu dài của Á Châu và thế giới được . Nhưng như nhiều bài học lịch sử đã để lại : một con thú lớn khi dãy chết thế nào cũng gây ra các hệ lụy cho vùng xung quanh , thời gian từ khi con thú bị chết cho đến khi thân xác bị thối rữa cũng lâu hơn . Các lân bang của Tầu càng cần hợp tác mật thiết hơn nữa trong tương lai, chẳng nên hợp tác trước kẻ thù chung sau đó lại đường ai nấy đi . Tương lai của Đông Nam Á nằm trong chủ trương hợp tác chân thành giữa các nước Đông Nam Á với nhau , cũng như giữa Đông Nam Á với các nước Âu Mỹ . Khối Đồng Minh Phương Đông hay cũng gọi là NATO Phương Đông quả thực là đáp ứng đúng với nguyện vọng của đa số người dân Á Châu vậy , bất kể anh là Hồi Giáo hay Phật Giáo, bất kể anh ở Hoa Lục hay Nam Á hoặc Đông Nam Á .

Hy vọng đa số người Việt trong ngoài nước biết phải làm gì cho tương lai lâu dài của đất nước .

Xin cám ơn quý vị đã đọc bài này .