Home Tin Tức Bình Luận Cảnh Giác Các Đồng Nghiệp Ở Trong Nước Về Chiến Dịch Truyền Thông Theo Công Pháp Quốc Tế

Cảnh Giác Các Đồng Nghiệp Ở Trong Nước Về Chiến Dịch Truyền Thông Theo Công Pháp Quốc Tế PDF Print E-mail
Tác Giả: Luật Sư Nguyễn Hữu Thống   
Thứ Tư, 06 Tháng 10 Năm 2010 10:56

Theo lập trường cố hữu, Trung Quốc không bao giờ dám đưa vụ tranh chấp hải phận và hải đảo tại Biển Đông Nam Á ra trước Tòa Án Quốc Tế, Tòa Án Luật Biển hay trước các Ủy Ban  Trọng Tài và Điều Giải Liên Hiệp Quốc.                                 



 
Rập theo Đế Quốc La Mã hồi thế kỷ thứ nhất gọi Địa Trung Hải là Biển Lịch Sử Của Chúng Tôi (mare nostrum), cho đến thế kỷ 21, Trung Quốc cũng gọi Biển Đông Nam Á (dưới danh xưng Biển Nam Hoa) là Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc. Theo quan niệm của Đế Quốc Ngai Rồng (Dragon Throne Imperialism) đó là một vấn đề “bất khả tranh nghị”.

Sách lược thôn tính Biển Đông của Trung Quốc gồm 3 giai đoạn:
Hán hóa đảo danh; hán hóa hải đảo và hán hóa Biển Đông.
Kế hoạch hán hóa đảo danh được phát động năm 1947 do Sắc Lệnh ngày
1-12-1947  của Chính Phủ Trùng Khánh công bố cải danh cho 102 hải đảo tại Biển Đông với những danh xưng hán hóa như Tây Sa, Nam Sa, Vĩnh Lạc, Tuyên Đức, Cam Tuyền, Thái Bình, Nam Uy  v… v….

Tháng 4-1956, thừa dịp quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam theo Hiệp Định Geneva 1954, Hải Quân Trung Quốc chiếm 7 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm An Vĩnh phía đông bắc (Amphitrite Group). Đó là  vùng biển Thất Châu Dương của Việt Nam gồm 7 đảo: Phú Lâm, Lincoln, Đảo Cây, Đảo Hòn Đá, Đảo Bắc, Đảo Trung và Đảo Nam.  
Tháng 1-1974, thừa dịp quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam theo Hiệp Định Paris 1973, Trung Quốc vận dụng toàn lực chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm Lưỡi Liềm (Crescent Group) phía tây nam với các đảo Hoàng Sa, Quang Hòa, Quang Ảnh, Hữu Nhật, Duy Mộng và Tri Tôn. Về vụ này, ngày 20-1-1974 Việt Nam Cộng Hòa đã đệ đơn khiếu tố Trung Quốc trước Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Tuy  nhiên nội vụ không được thụ lý vì không hội đủ túc số. Trong dịp này Hội Đồng Bảo An chính thức gửi văn thư yêu cầu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa  cho biết ý kiến về chủ quyền lãnh thổ tại quần đảo Hoàng Sa.  Nhưng từ đó đến nay Liên Hiệp Quốc vẫn không nhận được văn thư phúc đáp của Chính Phủ Hà Nội.

Bất khả tranh nghị hay tranh nghị?
Mới đây, với thủ đoạn ném đá dấu tay, Trung Quốc lại tung chiến dịch thăm dò dư luận bằng cách viện dẫn Công Pháp Quốc Tế nhằm hán hóa một số hải đảo tại Hoàng Sa. Trong chiến dịch này họ lý sự rằng trong Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển 1982 có điều khoản quy định sự thủ đắc chủ quyền các hải đảo do tiêu diệt thời hiệu : “Nước nào chiếm hữu các hải đảo quá 50 năm mà không gặp phản kháng, khiếu nại hay khiếu tố thì được hợp thức hóa chủ quyền”. Đó là Chiến Dịch Truyền Thông Theo Công Pháp Quốc Tế. Với chính sách gậm nhắm, từ hải đảo này sang hải đảo khác; từ hải phận miền Bắc xuống hải phận miền Nam.
 Với lý sự và “tranh nghị” này, chiếu nguyên tắc thủ đắc chủ quyền theo tiêu diệt thời hiệu, Trung Quốc chủ trương họ đã thủ đắc chủ quyền một số hải đảo Hoàng Sa do sự hưởng dụng hải đảo trong vòng ôn hòa và không gián đoạn trong một thời gian luật định là 50 năm. Sau thời gian này, do sự tiêu diệt thời hiệu, không ai có quyền đòi lại quyền sở hữu bất động sản (ở đây là các hải đảo) đã được Trung Quốc thủ đắc chủ quyền (Prescription Acquisitive or Statute of Limitation: The transfer of rights in real property by enjoying  it peacefully without interruption, over a long period of time, after which  a person is prevented by the statute  of limitation from recovering the real property or an interest therein: The Law Dictionary Revised by Wesley Gilmer, Jr. 1986).

Chiếu chủ thuyết này, Bắc Kinh khẳng định rằng tại quần đảo Hoàng Sa, Nhóm An Vĩnh đã thuộc quyền chiếm hữu và hưởng dụng của Trung Quốc từ năm 1956 nghĩa là quá thời hạn tiêu diệt 50 năm. Trong thời gian này, vì  không có tranh chấp hay khiếu tố về phía Việt Nam nên các hải đảo này đã vĩnh viễn thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc.

Để làm hậu thuẫn cho lập trường của họ, Bắc Kinh nói có “một điều luật” trong Công Ước Về Luật Biển qui định như vậy.
Để phản bác lý sự hay tranh nghị của Bắc Kinh chúng ta nêu lên những khước biện sau đây:

Điểm thứ nhất: Bắc Kinh không nói rõ điều luật đó là điều nào?
Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển ký kết năm 1982 và có hiệu lực chấp hành năm 1994. Công Ước gồm 200 trang và hơn 400 điều (320 điều về Phần Chính Yếu và 125 điều về Phần Phụ Đính). Duyệt xét toàn bộ Công Ước, trong số 445 điều,  chúng ta không thấy một điều nào đề cập đến vấn đề thủ đắc chủ quyền của các quốc gia duyên hải liên quan đến các hải đảo mà họ đã chiếm cứ ôn hòa và liên tục trong thời gian 50 năm.
Dầu sao Trung Quốc có thể tiếp tục tranh nghị bằng cách nêu lên Thuyết Thủ Đắc Chủ Quyền Các Đất Vô Chủ Do Chiếm Cứ.

Điểm thứ hai: Chiếm cứ võ trang
Theo án lệ của Tòa Án Quốc Tế họp thành  Luật Tục Lệ Quốc Tế, muốn thủ đắc chủ quyền các đất vô chủ (terra nullius), sự chiếm cứ phải có đặc tính sau đây:

Chiếm cứ hòa bình (peaceful occupation) nghĩa là không chiếm cứ võ trang.
Trong hiện vụ, không có sự chối cãi rằng hồi tháng 4-1956 Hải Quân Trung Quốc đã dùng võ trang chiếm 7 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm An Vĩnh về phía đông bắc. Và hồi tháng 1-1974, Trung Quốc lại dùng võ trang chiếm 6 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm Lưỡi Liềm phía tây nam.
Tại Trường Sa, hồi tháng 3-1988, lần đầu tiên Hải Quân Trung Quốc tấn công võ trang, và đã chiếm Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) và Đá Gaven cùng một số đá chìm và bãi ngầm.

Năm 1992, Trung Quốc lại dùng võ trang  chiếm Bãi Vạn An (Wanan Bei) tọa lạc trong Thềm Lục Địa Việt Nam về phía đông nam Bãi Tứ Chính (Vanguard Bank).
Trong suốt thời gian 56 năm nay, Trung Quốc đã chiếm cứ những đảo, cồn, đá, bãi tại Biển Đông Hải. Những sự chiếm cứ này không có tính hòa bình mà do xâm lăng võ trang nên không được luật pháp bảo vệ vì đi trái Điều 2 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc nghiêm cấm mọi sự bạo hành để thôn tính đất đai. Cũng như thời Thế Chiến II, Nhật Bản đã chiếm Hoàng Sa và Trường Sa bằng võ lực nên không có tư cách chủ quyền hợp pháp.

Điểm thứ ba: Không có sự thứa nhận chủ quyền của các quốc gia liên hệ.
Trong mọi trường hợp, theo học thuyết và án lệ, sự chiếm cứ hòa bình phải có tính liên tục và trường kỳ (continuous occupation for a considerable time).
Cho đến thập niên 1950, Trung Quốc không bao giờ lên tiếng đòi chủ quyền các hải đảo tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong khi đó, ít nhất từ năm 1816 dưới đời Vua Gia Long, Việt Nam đã chiếm cứ thực sự, công khai, hòa bình và  liên tục các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bia chủ quyền do người Pháp dựng năm 1938 có ghi :
République Francaise (Cộng Hòa Pháp)
                     Empire D’Annam (Vương Quốc Việt Nam)
           Archipel des Paracels (Quần Đảo Hoàng Sa)
  1816 -Ile de Pattle- l938 (Đảo Hoàng Sa)
Chiếm cứ năm 1816 và dựng bia năm 1938)

Các căn cứ quân sự của người Pháp được thiết lập từ đầu thập niên l930. Đài Khí Tượng Hoàng Sa mang số 48860 thuộc Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới bắt đầu hoạt động từ 1938. Trước đó, trong thập niên 1920, Công Ty Phosphate Bắc Kỳ đã khởi sự khai thác phân chim. Ngoài ra còn có hải đăng, Miễu Bà, Nhà Thờ Thiên Chúa, cầu tàu và các nhà cửa công sự xây cất với sự đồn trú của Đội Phòng Vệ Đông Dương và của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sự chiếm cứ này có tính thực sự, công khai, hòa bình, trường kỳ và liên tục cho đến 1956 và 1974 khi Hải Quân Trung Quốc xâm lăng.

Hơn nữa sự chiếm cứ phải được sự thừa nhận của các quốc gia liên hệ (acquiescence).
Tại Hội Nghị Hòa Bình San Francisco 1951, 51 quốc gia đồng minh ký Hiệp Ước Hòa Bình Nhật Bản trong đó Nhật Bản từ bỏ chủ quyền về Hoàng Sa Trường Sa, nhưng không nói để trả cho nước nào. Ngoại Trưởng Liên Sô yêu cầu Hội Nghị biểu quyết trả cho Trung Quốc. Nhưng Hội Nghị đã bác bỏ thỉnh cầu này với 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận và 1 phiếu trắng. Sau đó Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng Quốc Gia Việt Nam lên diễn đàn minh thị công bố chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại Hoàng Sa Trường Sa và không gặp sự phản kháng nào.

Đặc biệt là Hội Nghị Geneva 1954 đã minh thị thừa nhận chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Để giải quyết Chiến Tranh Đông Dương, Hội Nghị Geneva  được triệu tập với sự tham dự của 9 quốc gia gồm Ngũ  Cường Mỹ, Anh, Pháp, Liên Sô và Trung Quốc, cùng Ai Lao, Cao Miên và 2 nước Việt Nam là Quốc Gia Việt Nam (Miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc). Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954, một lần nữa, đã minh thị xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa (lúc này là Quốc Gia Việt Nam) tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Thật vậy, chiếu Điều 4 Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 “giới tuyến giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam (Vĩ Tuyến 17) kéo dài ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển. Lực lượng Liên Hiệp Pháp (gồm có Quốc Gia Việt Nam, Pháp và đồng minh) phải rút khỏi tất cả các hải đảo tại phía Bắc giới tuyến (Vĩ Tuyến 17). “Quân đội Nhân Dân Việt Nam (Bắc Việt) phải rút khỏi tất cả các hải đảo phía Nam giới tuyến” (Vĩ Tuyến 17) nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 7, từ Quảng Trị xuống Nam Cà Mau).

Do đó chiếu Hiệp Định Geneva 1954, quân đội Bắc Việt phải triệt thoái ra khỏi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tọa lạc về phía nam Vĩ Tuyến 17 (Quảng Trị-Nam Cà Mâu). Và, lẽ tất nhiên, tất cả các quân đội ngoại quốc khác (kể cả Trung Quốc và nhất là Trung Quốc) phải tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa và không được chiếm cứ hay đồn trú tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa kể cả vùng hải phận tại Biển Đông Hải. (Từ 1955 Quốc Gia Việt Nam thay đổi chính thể và lấy quốc hiệu là Việt Nam Cộng Hòa).

Ngoài ra Điều 12 Bản Tuyên Ngôn Sau Cùng của Hội Nghị Geneva ngày 21-7-1954 cũng khẳng định: “Các quốc gia tham dự Hội Nghị Geneva (trong đó có Trung Quốc) cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”. (Trung Quốc là một trong 9 quốc gia tham dự Hội Nghị Geneva 1954 với Anh Quốc và Liên Sô là đồng chủ tịch).

Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (1998) cũng khuyến cáo các quốc gia hội viên tránh mọi vi phạm tập thể, thô bạo và có hệ thống bắt nguốn từ sự chiếm đóng, gây hấn hay đe dọa chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ bằng cách  phủ nhận quyền của các dân tộc được hành sử chủ quyền đối với các tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước”.

Hơn nữa sự thừa nhận chủ quyền hải đảo chỉ có ý nghĩa nếu xuất phát từ các quốc gia duyên hải đối diện hay tiếp cận. Vì các đảo này tọa lạc tại Biển Đông Nam Á, nên  chỉ các quốc gia Đông Nam Á mới có thẩm quyền thừa nhận. Mà cho đến nay, trong tất cả các quốc gia Đông Nam Á không một nước nào thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Điểm thứ tư: Hoàng Sa và Trường Sa không phải  là đất vô chủ.
Điều đáng lưu ý là, cho tới những năm 1956, 1974, 1988 và 1992 các đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã do Việt Nam chiếm cứ hợp pháp nên không phải  là đất vô chủ (terra nullius).

Điểm thứ năm: Năm 1974 Việt Nam đã khiếu tố hành vi xâm lăng của Trung Quốc tại Hội Đồng Bảo An
Trái với luận điệu xuyên tạc của Bắc Kinh, như đã trình bày ở trên, ngay từ năm 1974, Việt Nam đã khiếu tố hành vi xâm lăng võ trang của Trung Quốc tại Hoàng Sa vì đi trái Điều 2 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Đặc biệt hơn nữa, theo Công Pháp Quốc Tế, ngay từ 1954, Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 đã minh thị thừa nhận chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa Trường Sa. Như vậy hành vi xâm lăng của Trung Quốc đã vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Điểm thứ sáu: Theo Công Pháp Quốc Tế Hoàng Sa Trường Sa thuộc chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam
Thật vậy, Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển dành cho Việt Nam tối thiểu 200 hải lý Thềm Lục Địa cộng với 12 hải lý Biển Lãnh Thổ chưa kể vùng biển của Đường Cơ Sở từ bờ biển Việt Nam ra Biển Lãnh Thổ. Như vậy, các hải đảo Hoàng Sa tọa lạc tại Thềm Lục Địa 200 hải lý và trong vùng hải phận khoảng 220 hải lý của Việt Nam. Chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển đây là chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam. Bất cứ sự chiếm hữu nào của ngoại bang, dầu là chiếm cứ võ trang hay không võ trang, cũng đều vô giá trị và vô hiệu lực.

Trong trường hợp Trung Quốc từ bỏ lập trường “bất khả tranh nghị” về những vấn đề liên quan đến  Luật Biển mà họ đã ký kết từ 28 năm nay để nhận tranh nghị thì Thuyết Thủ Đắc Chủ Quyền do Chiếm Cứ mà họ muốn viện dẫn cũng trở thành vô dụng. Vì nó vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, vi phạm Luật Tục Lệ Quốc Tế, vi phạm Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển và vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam về cả 3 phương diện pháp lý, địa lý và lịch sử. Rốt  cuộc đó cũng chỉ là một chiến dịch truyền thông theo Công Pháp Quốc Tế.

Cách đây 2 tháng trong một bài viết về Trịnh Hòa Chiếm Cứ Hoàng Sa Trường Sa năm 1413 và Khám Phá Mỹ Châu năm 1421, người viết đã kết luận rằng:
Phải là người Đại Hán có đảm lược (to gan lớn mật) mới dám lấy những chuyện hoang đường võng tưởng làm sự thật lịch sử. (Mời các bạn đọc bài viết này này trong phụ đính).
                                                                        
(Tháng 10-2010)