Home Tin Tức Bình Luận Quốc hận 30-4-1975 và hiệp định Paris ngày 27-1-1973 về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam

Quốc hận 30-4-1975 và hiệp định Paris ngày 27-1-1973 về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam PDF Print E-mail
Tác Giả: Thiện Ý   
Thứ Tư, 04 Tháng 5 Năm 2011 20:15

            Những ngày cuối tuần qua,  Cộng Đồng Người Việt tỵ nạn cộng sản khắp nơi ở hải ngoại, đã tổ chức các cuộc hội họp, biểu tình để tưởng niệm ngày 30-4-1975 và bầy tỏ quyết tâm chống cộng đến cùng nhằm giải thể chế độ độc tài toàn trị cộng sản tại Việt Nam, dân chủ hoá Đất nước.

        Trong bài bình luận hôm nay, chúng tôi muốn đưa ra vài nhận định về  giá trị thực sự của Hiệp Ðịnh Paris ngày 27 tháng Giêng năm 1973, về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở việt nam, từng được bốn bên trong cuộc chiến ký kết là Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hoà, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (tức Cộng sản Bắc Việt) và Chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam (con đẻ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, công cụ của Cộng Sản Bắc Việt). Giá trị ấy là gì ?

    Câu trả lời tổng quát: đó là tập giấy lộn, một bản án tử hình chế độ Việt Nam Cộng Hoà, được Ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger và Lê Ðức Thọ của Cộng sản Bắc Việt hợp soạn, để rồi hai năm sau đó bản án được thi hành bằng sự cưỡng tử Việt Nam Cộng Hoà vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

      Thật vậy, như mọi người đều biết, sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 ít lâu, Hoa Kỳ và Cộng sản Bắc Việt âm thầm khởi sự cho một hội nghị quốc tế nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam. Thất thế đầu tiên là Việt Nam Cộng Hoà duới áp lực của Mỹ đã phải ngồi vào bàn hội nghị bốn bên, dù biết rằng bị đặt ngang hàng với một bên là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, vốn là công cụ thôn tính Miền Nam của Cộng Sản Bắc Việt. Kế đến, trong nhiều ngày tháng sau đó, trong khi bề ngoài các bên tranh cãi nhau về  bàn họp hội nghị là bàn vuông,  hay bàn tròn, để sau cùng đi đến toả thuận là bàn bầu dục, thì Kissinger và Lê Ðức Thọ đã bí mật và chủ động soạn thảo ra văn kiện Hiệp Ðịnh Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại Hoà Bình ở Việt Nam, với nhiều điều khoản bất lợi, không chút bảo đảm gì cho tương lai chính trị chế độ Việt Nam Cộng Hoà.

        Vậy mà Kissinger đã ép buộc chính phủ Việt Nam Cộng Hoà phải ký vào văn kiện này. Chính phủ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lúc đó đã quyết liệt chối từ và lập tức bị Kissinger làm áp lực, đe dọa đủ điều. Sau vài sửa đổi một số điều khoản theo đòi hỏi của Việt Nam Cộng Hoà có tính nguyên tắc hơn là giá trị thực thi, cùng với sự gia tăng áp lực nặng nề lên chính phủ và cá nhân Tổng Thống Thiệu, kèm theo những lá thư phủ dụ trong quan hệ riêng tư của Tổng Thống Richard Nixon gửi cho Tổng Thống Thiệu, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã không có sự chọn lựa nào khác là phải ký vào bản Hiệp Ðịnh Paris ngày 27-1-1973.

         Hệ quả là: Hoa Kỳ đã rút chân ra khỏi cuộc chiến một cách danh dự, sau khi đã đạt được ý đồ chiến lược trong vùng thông qua cuộc chiến, bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà và thả nổi cho Cộng Sản Bắc việt thôn tính Miền Nam Việt Nam, trước sự phủi tay không thương tiếc của Hoa Kỳ và đồng minh, và sự làm lơ của những cam kết quốc tế bảo đảm cho việc thực thi hiệp định.

      Thật vậy, trong 9 chương, 23 điều của bản Hiệp Ðịnh Paris, chúng ta hãy đọc lại những điều mật ngọt nơi khoản (b) điều 9  Chương IV quy định “Việc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam” như sau:

    “ b) Nhân dân Miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của Miền Nam Việt Nam thông qua tổng tuyển cử thực sự tự do và dân chủ, có giám sát quốc tế.” Khoản (a) điều 11 thì ghi “Ngay sau khi ngưng bắn, hai bên Miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương trên tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc, tôn trọng lẫn nhau và không thôn tính lẫn nhau để thành lập Hội Ðồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc gồm ba thành phần ngang nhau...”. 

         Vẫn chưa hết những điều mật ngọt, đây là điều 15 của chương V Hiệp Ðịnh Paris quy định rất rõ ràng:

     “Việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hoà bình trên cơ sở bàn bạc và thoả thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam, không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào...Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và Miền Nam thoả thuận...”

      Ðến đây thì ai cũng thấy rõ thực tế hoàn toàn trái ngược với những quy định, cam kết, và giá trị thực sự của bản Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại Hoà bình ở Việt Nam do bốn bên trong cuộc chiến ký kết ngày 27-1-1973, chỉ là tập giấy lộn, ký mà chơi. Vì mọi bảo đảm, giám sát quốc tế ghi trong bản hiệp định này đã không được thực thi, mọi biện pháp chế tài kẻ vi phạm vẫn không được áp dụng, trước sự vi phạm trắng trợn của cả hai là một, là Cộng sản Bắc việt và công cụ của họ là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

        Bài học kinh nghiệm cần rút ra sau 36 năm quốc hận vẫn là câu nói đúng mà đã làm không đúng của cố Tổng Thống Thiệu  là: “Ðừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”; Và rằng: cũng đừng quá tin vào những cam kết quốc tế liên quan đến số phận dân tộc, đất nước mình, mà hãy tin vào chính mình và luôn dựa trên sức mình là chính để giải quyết các vấn đề của đất nước và dân tộc.