Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Muốn biết rõ Nam Bộ đã bị Đảng CSVN lừa gạt và nhuộm đỏ” thế nào?

Muốn biết rõ Nam Bộ đã bị Đảng CSVN lừa gạt và nhuộm đỏ” thế nào? PDF Print E-mail
Tác Giả: Tôn Thất Thiện   
Thứ Tư, 15 Tháng 12 Năm 2010 12:38

Cần đọc tác phẩm của Vy Thanh Lớn Lên Với Đất Nuớc

Nói lên “sự thật méo mó”
 
 Vào khoảng năm 1990-91, nhân dịp ghé Paris, tôi đuợc một nguời cộng sản đa bỏ Đảng giới thiệu với ông Phạm Ngọc Thuần. Ông này từng giữ chức lớn trong hàng ngu Việt Cộng, làm đại sứ ở Đông Đức, nhung sau 1975 ông bỏ cộng sản và tỵ nạn ở Pháp. Trong cuộc nói chuyện ông tỏ ra không ua thích cộng sản, nhung khi tôi gợi ý ông nên viết hồi ký kể lại những chuyện mà ông đa nghe tận tai, thấy tận mắt trong thời gian ông đi với cộng sản thế nào thì ông trả lời: “Mình đa đi với nguời ta lâu, không lẽ nay lại nói này nói nọ về họ...”

Thái độ của ông Phạm Ngọc Thuần là thái độ của rất nhiều nguời gốc Nam Bộ đa đi với cộng sản. Hậu quả là tuy chúng ta biết rằng nguời Nam Bộ, cung nhu nguời Việt ở những vùng khác, đã bị Đảng Cộng Sản lừa gạt lợi dụng chiêu bài chống Pháp giành độc lập thế nào để thực hiện ý đồ sâu xa của họ là biến nuớc Việt Nam thành một quốc gia cộng sản, một “tiền đồn của khối xã hội chủ nghia” do Liên xô cầm đầu, chúng ta không đuợc biết tuờng tận, chi tiết Nam Bộ đa bị Đảng Cộng Sản “nhuộm đỏ” thế nào. Nay, nhờ tác phẩm Lớn Lên Với Đất Nuớc ta trám đuợc một lổ hổng lớn về sự thiếu sót này. “Miền Nam bị nhuộm đỏ,” cụm từ mà Vy Thanh dùng (tr.43), cung có thể là tít của tác phẩm có tính cách hồi ức này. . .

Vy Thanh là một trí thức gốc Nam Bộ đa “xếp bút nghiên lên đuờng tranh đấu,” “bỏ thành vô bung,” tham gia kháng chiến chống Pháp, đa đuợc chỉ định làm công tác ở Ban Tuyên huấn của Khu 9 [vùng từ Cần tho đến Rạch giá và U minh], và đa đuợc đi học lại để làm công tác trí vận ở vùng (Đặc Khu) Sài gòn-Chợ lớn. Sau khi Hiệp Định Genève đuợc ký, anh ta lại đuợc Đảng chấp nhận cho đi Mỹ học để chuẩn bị công tác trí vận chống Mỹ trong tuong lai. Nhung những quan sát và suy tu của anh trong thời gian “ở trong bung,” rồi “về thành,” và ở Mỹ, đa làm anh ta tỉnh ngộ. Và may cho anh ta, khi học ở Mỹ xong về lại xứ thì tổ trí vận Sài gòn-Chợ lớn bị vỡ, anh mất liên lạc, và cung nhờ khi vô “vô bung,” rồi “về thành” anh đều bị đổi tên nên không còn trong danh sách cán bộ trí vận đó, nên chẳng ai biết anh còn sống hay chết, nay ở đâu, làm gì, và không bị ai móc nối nữa. Dù sao anh đa quyết định rằng tinh thần yêu nuớc “đi kháng chiến…giống nhu con nít thấy nguời lớn đi coi hát, chạy theo, vô rạp [nhu hồi đám ma Trần Văn On, 1950]…giờ không còn hợp thời nữa.” Anh nói với thân phụ anh rằng: “ý định của con là không muốn trở vào bung hay ở ngoài thành hoạt động nữa. Đối với con, mất bao nhiêu năm đó là đủ rồi” (tr. 338-339). Sau ngày cộng sản chiếm Sài gòn, anh ta bị đi trại học tập một thời gian, nhung sau đó anh vuợt biên đuợc với gia đinh, và định cu tại Mỹ.

Trong Lớn Lên Với Đất Nuớc, anh Vy Thanh đa kể lại cuộc đời của anh từ lúc anh ta 12 tuổi, vào lúc Thế Giới Chiến II tiếp diễn và anh mục kích cảnh nguời Việt bị hiếp đáp, hành hạ, chà đạp, giết chóc. Truớc là bởi nguời ngoại quốc: Nhựt, chủ mới của Việt Nam sau khi lật đổ Pháp; rồi đến quân đội Pháp trở lại, mang theo những lính Lê duong, gốc Ả rập, gốc Phi; rồi nguời Việt nhân danh độc lập và “Cách mạng.”

Lớn Lên Với Đất Nuớc chia thành 10 chuong, dày 753 trang, trong đó 396 trang là bản chính, 400 trang là chú thích. Tác giả đa tham khảo 208 tài liệu, một phần lớn là tài liệu của “bên kia” (cộng sản). Đó là chua kể báo chí. Một điều đặc biệt, rất hiếm, mà có thể nói là chua hề có trong các sách Việt Nam, là sách có một Danh mục (Index). Có thể nói rằng Lớn Lên Với Đất Nuớc là một công cụ nghiên cứu và một kho tàng vô giá cho những nhà suu khảo về lịch sử, cùng các môn học địa lý, xã hội, tâm lý, canh nông, tôm cua cá, cây trái, của Miền Hậu Giang.
 
Những chuyện đã nghe, thấy.
 
Tác phẩm hết sức phong phú. Vy Thanh nói về những chuyện “đa nghe, thấy, hiểu biết về đất nuớc từ ngày lớn lên.” Những chuyện ấy “nhiều lắm.” Nhu đa thấy, nó chiếm 300 trên 753 truong. Ở đây không thể đề cập đến hết những chuyện đó đuợc. Độc giả nào nóng ruột muốn biết ngay Vy Thanh đa đề cập đến những gì, xin lật sách ngay đến những truong 393-395. Trong đó, Vy Thanh đa tóm tắt những chuyện gì anh đa đề cập đến. Ở đây chỉ có thể trích ra một vài chuyện đáng ghi nhất.

 “Những chiếc ghe hầu của cán bộ lãnh đạo…Tôi đuợc anh liên lạc chèo ghe cho lãnh đạo mời xuống tam bản [dành riêng cho lãnh đạo] uống cà phê sữa trong khi thủ truởng của anh đọc leo lẻo …cần kiệm liêm chính cho cán bộ huyện chép về học.”

 “Nữa đem cô nữ sinh tốc mùng chạy, la hoảng trong rừng” [vì bị một ông cán bộ cấp Trung uong lén mò chun vô mùng cô ta để làm chuyện đốn mạt].

 “Hon một trăm ghe chài chở lúa đầy nhóc bị nhận chìm làm thúi khúc sông cả tháng. Những bà già ngồi bên cạnh hai cái nong đựng đầy vịt mới nở, bóc từng con ở nong này đua lên xem rồi đặt sang nong kia… chỉ vì Ủy ban Kháng chiến–Hành chánh biểu phải bẻ cổ hết” [theo kế hoạch “nông thôn bao vây thành thị với chính sách ngoại bất nhập nội bất xuất” của các ông cán bộ Trung uong phái vô không hiểu gì tình hình địa phuong].

 “Chuong trình tiểu học 5 năm dạy xong trong 18 tháng…, lên lớp nhứt học trò làm đuợc toán đại số, chứng minh đuợc những định lý hình học phẳng. Nhung anh học trò giỏi truởng trại ở truờng trung học kháng chiến chua học qua hàm số y = ax2 + bx + c. Cô mụ vuờn học một khoá 3 tháng. . . đỗ bằng bác si đẻ.”

 “Ngay từ ngày đầu của Nam Bộ kháng chiến “Ta” kêu gọi thầy cô giáo, sinh viên học sinh, văn nhân ký giả đóng góp cho cuộc kháng chiến thần thánh của “Ta.” Sự thật đa hiển hiện nhu thế nào khi nhóm Đệ Tam triệt hết những nguời yêu nuớc nhu, xin kể một vài vị, các ông Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Hồ Văn Ngà, v.v. Văn nhân nhu các cụ Phan Khôi, Phùng Cung cùng các bằng hữu đa làm gì đến nỗi bị tù đay? Báo Nhân Văn có tội với đất nuớc chẳng bằng việc vác cả bộ Das Kapital về lệnh cho dân Việt thờ phụng tụng niệm hằng ngày?”

 “Ta” dạy dân thù ghét thực dân Pháp. Nhung thầy giáo của “Ta” dạy học trò phải tin yêu Liên Xô, thành trì xã hội chủ nghia. “Ta” mắng Lê Tắc cầu vinh phuong Bắc. Nhung “bác Sáu Lê” với y phục cổ đứng 4-túi kiểu Bắc Kinh, vào chầu “Bác” Mao truớc khi tới Paris phó hội.

 “Cộng tác với Pháp là Việt gian, làm việc với Mỹ là Mỹ ngụy. Nhung “Bác” Hồ sang Moscou xin Stalin viện trợ đánh Tây, “Bác” qua Bắc Kinh yêu cầu Mao Trạch Đông và Đảng Cộng sản Trung Quốc giúp đánh úp miền Nam là yêu nuớc.”

“Đấy! Ai Việt gian hon ai? Ai ngụy chẳng thua ai?”

“Về tu tuởng, đa nói: “Ta” chẳng có tu tuởng gì hết. Lạt mềm buộc chặt là phuong pháp “Ta” cột cái gì đó với con nguời. Vợ cả, vợ hai, hai ba vợ đều. . . là cách giải quyết thỏa đáng từng vấn đề của “Ta.” Đạo đức cách mạng là đó.” (tr.393-395)

Tức lộn ruột

Tác giả Vy Thanh nói nhiều về TWC (Trung uong Cục) vì rất nhiều nguời tham gia kháng chiến chống Pháp ở vùng Hậu Giang đa là nạn nhân của một số nhân vật của co quan này, và trong lúc trò chuyện với nhau đa tiết lộ cho nhau biết những gì đa xảy ra cho bản thân họ. Đoạn sau đây tóm tắt tâm trạng của họ nhân dịp bàn về hai cán bộ cao cấp của TWC.

Câu chuyện xoay quanh vấn đề các ông “lãnh tụ” ở Trung uong đuợc gởi vào công tác ở Khu 9 –vùng Hậu Giang– đa lớn tuổi và đa có vợ rồi, nhung vào đây lại muốn “xây dựng” với gái sở tại, truớc bằng dụ dỗ, rồi đến cách ép buộc các cô làm duới quyền mình, và ban đem lén vô nhà và vô mùng các cô định dở trò. Một cô tên là Thanh bị “bác Sáu” chiếu cố, một cô tên là Đao bị “ông Chín Kỳ” chiếu cố. Cô Thanh bị “anh Sáu” ban đem lén vô nhà chui vô mùng, cô hô hoán lên. Cô Đao bị “ông Chín Kỳ” biểu xuống ghe tam bản với ông, rồi kéo níu cô, đe cô làm ẩu. Cô ta phải phóng xuống kinh lội, leo vô nhà dân trốn, kêu cứu. Kết quả là cô Thanh bị “bác Sáu” ra lệnh đuổi cô khỏi Văn phòng, và cô Đao bị “ông Chín Kỳ” mắng cô về tội “làm nhục cấp Trung uong truớc mặt dân.”

Khi nói đến “bác Sáu” và “ông Chín Kỳ,” Vy Thanh góp phần:
“Tôi cung rõ “bác Sáu” là ai rồi. [“Bác Sáu” là Lê Đức Thọ, Phó Bí thu TWC Miền Nam, gốc Nam Định]. Tôi cung rõ Luu Quý Kỳ là nguời thế nào. [Luu Quý Kỳ là Vụ truởng Vụ Tuyên truyền Miền Nam, gốc Quảng Nam]. Mấy đứa bạn trai cùng truờng Nguyễn Văn Tố đa về co quan này truớc tôi một tháng, bật đen báo động về một số nhân vật thuộc loại vừa có râu cằm lại có nanh ở đây khi tôi vào Văn phòng ‘A’.”[thuộc TWC].

“Tụi nó nói:
“Đây là đất TWC, đọc theo từng âm của mẫu tự thành tức. TWC là chỗ gây ra cái tức, nhu tức mình vì thấy quá nhiều chuyện trái tai gai mắt, tức hộc gạch vì ức lòng quá mà nói ra không đuợc, máu trong tim muốn ộc ra, tức lộn ruột vì đang đứng gặp chuyện nguợc đời thành thử đầu dộng xuống đất cẳng chổng lên trời.” (tr.290)

“Tức hộc gạch,” “tức lộn ruột” là động lực thúc đẩy Vy Thanh viết Lớn Lên Với Đất Nuớc. Nó là sợi chỉ đỏ xuyên qua suốt tác phẩm này. Nhu anh giải thích trong “Lời nói đầu”:
 
“Những trang sau đây là chuyện của bốn thế hệ sống trên hữu ngạn Sông Hậu. Bắt đầu từ khi lửa chiến tranh Thế giới thứ II. . . Trong số chuyện có cảnh tàn ác, dã man. Tôi không vì tính ác nghiệt, vô nhân đạo ghi nhẹ đi. Vì đó là cảnh thật, động tác chính xác xảy ra truớc mắt tôi lúc bấy giờ. Tôi chỉ muốn trình với nguời đọc những gì tôi thấy nhung nguời ta muốn giấu để “thắng” nguời dân trong nuớc, để “khoe” chế độ tiến bộ trên thế giới.

Tôi trích dẫn các sự kiện. . . nhằm giúp nguời đọc thấy rõ cuộc chiến giữa nguời trong nhà trên đất nuớc tôi ở góc cạnh khác, góc cạnh luôn đuợc tô đậm là “sự thật” nhung là “sự thật méo mó” để cùng tôi, chúng ta hỏi:“Có đáng hy sinh cả triệu nguời  Việt, Pháp, Mỹ  cho cuộc chiến đó?, đáng tặng giải “Nobel Hoà bình què” năm 1973 cho hai nguời đa quàng khăn tang lên đầu các goá phụ và những đứa trẻ Mỹ, Việt mồ côi cha không?” (tr. xiii)
 
 Vô chiến khu

Lớn Lên Với Đất Nuớc là hồi ức của một thanh niên vùng Hậu Giang của Nam Bộ kể lại hành trình của mình từ lúc “bỏ thành vô bung” đi kháng chiến đánh Pháp giành độc lập cho đất nuớc, nhung sau một thời gian sống trong “bung” mục kích nhiều cảnh chuớng tai gai mắt, thấy mình lầm, bị cộng sản luờng gạt và lợi dụng, đa rút mình ra khỏi tình trạng con chốt bị thí. Nguời thanh niên đó là Vy Thanh, nhung có thể là một trong hàng ngàn hàng vạn thanh niên Nam Bộ, và có thể nói toàn quốc, đa roi vào tình trạng đó. Nhung khác với Vy Thanh, họ đa không gặp một số may mắn giúp họ thoát mạng luới của cộng sản.

Vy Thanh lớn lên giữa lúc tình hình quốc tế và quốc nội chuyển biến dồn dập: Chiến tranh Thế giới II bùng nổ, Nhựt đua quân vô Bắc Việt, rồi Nam Việt, đảo chính Pháp làm chủ Việt Nam, rồi bị Đồng Minh đánh bại; Pháp mang quân định đặt lại chủ quyền trên Việt Nam. Sự kiện này phát động một phong trào kháng chiến chống Pháp. Đồng thời Đảng Cộng Sản Việt Nam đội lốt Việt Minh, nhân danh tranh đấu giành độc lập, cuớp quyền lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Rồi cựu Hoàng Bảo Đại tái xuất hiện và ký hiệp định nhận Việt Nam là thành phần Liên Hiệp Pháp, nghia là liên minh với Pháp chống Việt Minh, nghia là chống kháng chiến. Cộng sản có một đề tài tuyên truyền rất hữu hiệu.

Những năm 1945-1950 là những năm đời sống dân Nam Bộ xáo trộn. Một trong hậu quả của sự xáo trộn đó là một phần thì truờng ốc đóng cửa, một phần thì tinh thần thanh niên dao động, và bị ảnh huởng lớn của phong trào kháng chiến. Vy Thanh nhận xét: “Tinh thần dao động của nguời quốc gia miền Nam đuợc cộng sản khai thác. Thừa nuớc đục, Việt Minh quậy thêm cho đục ngầu với nhiều màn xích động. Học trò, cô giáo nhẹ dạ, bạn hàng rong ngoài chợ, các anh xe đạp xích lô khắp các đuờng phố, thầy thông ông phán dễ tin trong mấy công sở ở tỉnh, hễ nghe Việt Minh xúi đi biểu tình đánh đuổi Tây thì tất cả xuống đuờng cái rụp.” (tr.120)

Vy Thanh cung bị phong trào này lôi kéo. Khởi tiên, anh ta chỉ đi một tháng “vô bung coi cho biết.” Nhung rồi, sau “vụ trò On,” bị kích động mạnh, lại đuợc hứa sẽ đuợc đi Ba lan, Ấn độ học, anh ta xin cha mẹ cho đi “vô chiến khu” luôn. Và từ đây bắt đầu một “đời sống mới,” một đời sống với tên mới, ngôn ngữ mới, sống theo tiêu chuẩn “tập thể,” biết nhận “giai cấp mới” với tiêu chuẩn “tiểu táo,” “đại táo.” Đặc biệt là đời sống của mình do nguời khác quyết định. Nguời khác đó là “Cách mạng,” nghia là Đảng Cộng Sản. Và sau khi đuợc giao công tác “những phiền phức bắt đầu” (tr.157), đặc biệt là phải “học hỏi để nắm vững đuờng lối cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân của Đảng. . .nhiệm vụ bức thiết hàng đầu là học tập về chính trị, tu tuởng và tổ chức” (tr. 163). Vy Thanh đa buớc vào một thế mà chỉ có tới không có lui.

Trong thời gian chỉ hon nửa năm anh Vy Thanh đa ý thức đuợc điều trên đây. Anh biết rằng “giặc Tây truớc mặt không nguy hiểm bằng kẻ thù trong hàng với mình, đứng ở sau lung!” Anh đuợc biết rằng nhiều chiến si cộng sản hoặc quốc gia có công chống Pháp đa bị loại. Anh đa thấy “mặt nhám phía sau cái huy hiệu “kháng chiến chống Pháp giành độc lập.” Mặt đó “đuợc son toàn màu đỏ”. (tr.227)

Về “độc lập, tự do, dân chủ” anh nói:
“Tôi thấy thuong dân nuớc tôi quá. Họ chiến đấu với Pháp giành lại độc lập, tự do, đặng có cuộc sống hạnh phúc. Hạnh phúc đâu chẳng thấy, chỉ thấy bất hạnh ngay từ tháng Tám năm xua: thằng chổng trôi lềnh bềnh trên sông, nguời bị bắn ở sân banh, đan ông bị mổ bụng dồn trấu, bị cho mò tôm, bị bắn sau ót, đan bà bị hiếp, chồng vắng đang đem ngủ bị nguời có quyền có chức dỡ mùng chun đại vô, trẻ con đi coi hát cung bị lựu đạn què giò, v.v., . . .đủ cảnh!” (tr.232)

Nhung anh Vy Thanh ý thức rằng anh chỉ là “một con chốt trên bàn cờ,” và “chốt chỉ có đi tới không có buớc lùi!” Cho nên khi anh nghe truởng co quan của anh đề cập đến việc kết nạp vào Đảng, anh ù tai! Anh nói: “Tôi biết đuợc kết nạp tức là buớc vào vòng kềm toả của họ.” Anh cung ý thức đuợc rằng: “Mình đang sống chung với hổ, báo, beo. . . toàn thú ăn thịt, giết thú lẫn nguời, không từ một ai” (tr.289). Anh thấy rõ: “mình hiện đang ngồi trên lung cọp… Nếu tôi nhảy xuống dọc đuờng, nó sẽ nhai nát đầu tôi” (tr.304). Nhung anh cung quyết định rằng anh sẽ không có ngày trở về chiến khu và “bằng mọi cách, tôi sẽ không là quân cờ nguời trong trận thu hùng giữa họ và Tây” (tr.288).
 
Cần phải viết

 Anh Vy Thanh đa thực hiện đuợc ý nguyện trên, nhờ một sự may mắn lớn, phải nói là rất hiếm có trong đời, và nhất là trong thế giới cộng sản: anh đa đuợc một cán bộ cao cấp che chở, cất nhắc vì thấy khả năng của anh lớn. Ông này là ông “Chín Trản,” Bí thu Khu ủy 9, và Giám đốc truờng Đảng Khu ủy 9. Ngay từ đầu ông ta tỏ ra có cảm tình với anh Vy Thanh, và trong suốt thời gian Vy Thanh công tác trong Ban Tuyên huấn của TWC ông ấy đề bạt anh vào những chức vụ tốt, rồi đề nghị cho anh ấy về thành đi học xong Tú tài, rồi lại cho đi Mỹ học. Ý định nói ra của ông Chín Trản là chuẩn bị cho Vy Thanh thành một chuyên viên văn hóa cao, và lâm thời kết nạp anh ấy vô Đảng để làm công tác trí thức vận. Nhung, nhu đã thấy, sự việc đã không xảy ra nhu vậy. Đó là một điều may cho anh Vy Thanh. Nhung cung là một điều may cho chúng ta. Nhờ anh mà nay ta biết rõ thêm đuợc mặt thật của cộng sản ở vùng Hậu Giang thời Nam Bộ kháng chiến. Ta hy vọng rằng sẽ có nguời nhu anh Vy Thanh viết về giai đoạn đó về vùng Tiền Giang, Miền Đông Nam Bộ.

 Đoạn kết thúc tác phẩm của anh Vy Thanh đáng đuợc mọi nguời nghiền ngẫm. Anh viết:
 
 “Tôi nghi, một ngày nào.  Sẽ có nhiều cây viết ghi những dòng tuong tự nhu tôi kể trên nhắc sự kiện đã xảy ra ở khắp nuớc tôi nhu vậy đó.

 Phải có thiệt nhiều tác phẩm nói lên chuyện thật. Từng chuyện liên hệ đến một vùng trên quê huong tôi. Nhiều chuyện gom lại thành sách phản ảnh, cảnh ngộ. Từ Bắc vào Nam. Của những nạn nhân cộng sản sống lây lất từ 1930 cho đến nay. Của những nguời đa từng sống, đứng trong hàng ngu kháng chiến chống Pháp. Của những gia đinh đa trải qua thời kỳ chống Mỹ cứu nuớc. Sự thật đã rõ: dân nuớc tôi đuợc dẫn đi phá đuờng, đắp cản, đao hầm chông, chắt mót cho đầy hủ gạo chống Mỹ, v.v. . .trong suốt hai thời kỳ đó để rồi “Ta” cho không vùng biển đất nuớc, cho dời cột mốc biên giới miền Bắc về phía Nam xa hon đặng đền đáp tình giao hảo nhu răng với môi.

 Chuyện ngắn dài không quan trọng. Điều quan trọng là đừng để chuyện thật bị võ trang tuyên truyền bóp méo.

Cần phải viết, phải kể đặng các thế hệ đuợc sinh nhung chỉ đuợc sống rất ngắn ngủi trên đất Việt biết thế hệ ông cha mình đa bị cộng sản sát hại, sỉ nhục, tù đay đến mức nào; đa bất chấp hiểm nguy chẳng nề mạng sống bỏ tất cả lại phía sau để cho con cháu huởng tự do.” (tr.395)
 
 Tôn Thất Thiện