Toàn thân gã rã rời mệt nhừ, ráng lê từng bước trên con đường mòn nhỏ hầu như vô định...
Toàn thân gã rã rời mệt nhừ, ráng lê từng bước trên con đường mòn nhỏ hầu như vô định. Đã về chiều, mặt trời vàng ệch bệnh hoạn xuyên qua những tảng mây đen nặng chĩu, hấp hối cuối phương Tây. Gã cũng chẳng biết đây là nơi chốn nào và cũng không còn nhớ mình từ đâu tới. Chẳng lẽ gã đã mất hết trí nhớ và sáng suốt vốn bẩm sinh của con người, trở thành tăm tối vì tuyệt vọng? Đói khát, nhất là khát, làm thân thể gã quắt lại, kiệt quệ. Gã chỉ muốn nằm lăn ra đất. Đã đến bước đường cùng tuyệt vọng rồi chăng! Gã ngồi bệt xuống, ráng hít thở thật sâu lấy nhiều khí trời vào trong lồng ngực lép xẹp.
- Gã định thần quay nhìn về phía sau, nơi gã vừa lê lết đi qua. Đó là cánh đồng trắng mênh mông đất đai nứt nẻ khô cằn, có những con đường mòn nhỏ cỏ dại héo úa che lấp. Nhìn về phía trước, gã tuyệt vọng hơn. Một khu rừng chết trên những đồi núi hoang vu, thưa thớt những thân cây già cỗi sần sùì với những cành khô trơ trụi không lá. Tất cả lặng lẽ đến rợn người. Gã có cảm tưởng đây là chốn hoang địa thủa xa xưa, khi trái đất mới thành hình. Gã hết nhìn cánh đồng phía sau đến khu núi đồi phía trước, trùng trùng điệp điệp, chẳng có mảy may sự sống nào. Không một tiếng động, không một sinh vật. Sao lại thế này? Tại trời, tại đất hay tại người? Chẳng lẽ đây là chốn tận cùng của cõi thế, nơi kết thúc cuộc đời gã? Chẳng lẽ đây là cõi gã vẫn hằng mơ tưởng?Cái đói, cái khát hành hạ thân thể gã mỗi lúc thêm khốn khổ. Gã cũng chẳng còn nhớ mình trải qua quãng đường thê thảm này từ khi nào. Có thể gã bỏ xác đây mất.
Tốt thôi, gã tự an ủi. Ít ra cũng được trút hơi thở cuối cùng giữa đất trời bao la, xa lánh hẳn cõi người thảm hại, ngập ngụa tham sân si, độc ác tàn nhẫn quỷ quyệt. Nhưng bản năng sinh tồn trong con người gã không chịu, vẫn cố vùng lên tìm sự sống. Gã đưa đôi mắt thiếu sinh khí tìm kiếm chút hy vọng, dù mong manh. Kia rồi! Từ phía xa, dưới chân ngọn đồi trọc, gã nhìn thấy một vật hình dạng giống như cái chòi nhỏ. Nếu đúng vậy thì phải có người ở. Có người ở là có sự sống. Hy vọng làm tăng thêm sức lực, gã cố gượng đứng lên và lê từng bước tới cái chòi vừa nhìn thấy. Nhưng bước đi không nổi nữa, gã phải bò lết bằng hai tay hai chân. Trầy da rướm máu, mặc. Gã phải cố đến cái chòi trước khi mặt trời lặn. Đúng vừa lúc bóng đêm mờ mờ buông xuống, gã đạt ý muốn. Đó là cái chòi nhỏ cũ kỹ, cao khoảng ba mét, bốn vách là những thân cây to hơn cổ chân đóng sâu xuống đất, vỏ cây xám xậm. Mái chòi cũng làm bằng những cành cây nhỏ, xếp chồng lên nhau.
Gã mừng lắm đưa tay gõ cửa chòi, một cánh liếp tre đan, cất tiếng gọi. Không có lời đáp. Lên tiếng lần nữa. Hoàn toàn im lặng. Chẳng lẽ chòi bỏ hoang? Gã chớm thất vọng. Gã ngần ngừ một lúc như đắn đo suy nghĩ. Đâu còn nơi chốn tạm trú nào khác. Gã dùng hết lực tàn hai tay đẩy tung cánh liếp. Liếp không cài then, cửa mở. Trong chòi trống trơn tối tăm ẩm mốc lạnh lẽo, chủ chòi chắc hết đường sống bỏ đi từ lâu. Gã mò mẫm lết vào. Sau khi nhìn quen trong bóng tối chập chờn và nhờ chút ánh sáng mờ nhạt bên ngoài theo gã vào, gã thấy góc chòi bên trái có tấm bố cũ nát, phát ra một mùi hôi thối. Một thoáng rờn rợn. Mùi hôi thối này của người hay vật? Nếu là của người thì có thể là tai họa! Gã lấy can đảm lết tới tấm bố. Gã giật mình. Một con vật nhỏ bé từ tấm bố chạy vụt ra. Gã định thần nhìn: con chuột nhắt. Nó chui biến vào cái lỗ góc chòi bên phải. Thế là gã có bạn rồi. Gã lật tấm bố thấy xác một con vật. Con chuột nhắt vừa rồi tới kiếm ăn. Gã lại cảm thấy đói cồn cào ruột gan. Gã nghĩ tới con chuột nhắt. Phải bắt nó bằng được, ít ra cũng tạm đỡ cơn đói. Nhưng làm sao bắt? Nó chui vào hang mà sức mình kiệt quệ quá rồi? Mặc dầu vậy gã vẫn hy vọng. Gã lết lại phía cửa chòi, cài chặt then liếp và tháo cái thắt lưng da cột thật kỹ, cẩn tắc vô ưu.
Sớm muộn con chuột nhắt phải bò ra kiếm ăn. Gã lẩm bẩm. May quá, gã nhìn thấy một cành cây dựa bên vách. Gã với tay cầm. Không phải cành cây, đó là cái gậy bằng nứa khô dài hơn thước. Gã nằm xuống cạnh tấm bố nghỉ ngơi - mặc cho mùi hôi thối ngợp ngụa - và rình chờ con chuột nhắt xuất hiện. Ít phút sau gã lịm thiếp lúc nào không hay. Khi thấy ngón chân mình nhột nhột và hơi đau, gã tỉnh lại. Chú chuột nhắt đang gặm ngón chân gã. Chắc nó sung sướng lắm được ăn một bữa tiệc tươi sống. Chưa kịp thưởng thức, bị động, nó chạy về hang. Gã không kịp ra tay, mất dịp may tiếc hùi hụi. Từ đó gã quyết không ngủ nữa, tay nắm chặt cái gậy nứa chờ. Bỗng gã nghe một tiếng tru dài từ xa vẳng lại, như tiếng chó sói. Có lẽ con vật đánh hơi thấy mùi người tìm đến. Nó sống chốn núi rừng khô khan cạn kiệt này tất nhiên bị đói nên đêm hôm lần mò đi kiếm ăn. Gã chột dạ. Nếu nó tới mình chống đỡ bằng cách nào?
Trước sự đe dọa, gã quên sức tàn lực kiệt, chống tay đứng lên “kiểm tra” các tấm vách cây và lục tìm các thứ có trong chòi để chèn thật chặt lần nữa cái liếp cửa. Có một hòn đá to hơn nắm tay. “Vũ khí” đây rồi. Gã tạm yên tâm đặt sinh mạng mình vào hòn đá và cái gậy nứa. Chưa kịp nằm xuống nghỉ thì đúng như gã đoán, con chó sói đang lần bước về phía chòi. Tiếng chân nó lúc một rõ dần, nhưng không mạnh lắm. Tới chòi, gã nghe tiếng chân nó rảo vòng quanh tìm kiếm chỗ vào và cái mũi nó hít hít, đánh hơi. Rồi nó lồng lộn như tức tối không tìm ra. Nó lấy cẳng trước cào mạnh vào vách gỗ chòi. Tim gã đập loạn theo tiếng cào của con chó sói. Vừa lúc đó, oái oăm làm sao, con chuột nhắt bò ra. Vì sợ con chó sói, gã đành thúc thủ. Gã nằm im không cựa quậy. Nếu con chuột liều bò sát lại, gã sẽ đưa tay tóm chặt lấy cổ nó để nó không kịp phát tiếng kêu. Nhưng con chuột nhắt thật tinh ranh. Nó biết khối thịt còn sống và hình như nó cũng nghe ngóng biết con chó sói ngoài chòi nên rút về hang ngay.
Con chó sói cứ thế “ tuần hành” quanh chòi. Rồi có lẽ hết kiên nhẫn, nó tru lên hồi dài. Nó gọi đàn? Đêm chắc đã vào khuya. Gã đếm từng phút từng giờ, và cầu nguyện nữa, xin thời gian trôi mau tới sáng. Khi có ánh mặt trời gã an tâm hơn, vì sự đe dọa và nỗi sợ hãi sẽ giảm đi nhiều. Bóng tối cơ hội tội ác lộng hành mà! Mỗi bước chân con chó sói như bước trên thân thể gã. Gã chợt nhớ có hai “vũ khí” tự vệ: hòn đá và cái gậy nứa, nãy giờ sợ hãi, gã quên khuấy. Gã nắm chặt hai “vũ khí” trong hai tay. Con thú vào đây gã quyết tử chiến với nó. Biết đâu nó bị đói lâu ngày không còn sức kháng cự, sẽ bị gã đập chết. Gã nghĩ tới những miếng thịt nơi thân mình con chó sói nướng lên thơm phức. Nước miếng gã ứa ra, thèm thuồng. Nếu hạ được nó gã cũng có đồ ăn dăm bữa, trong khi chờ đợi tìm ra con đường thoát khỏi đây. Gã đã nhịn đói nhiều ngày. Khát thì lúc đầu có mấy rãnh nhỏ dọc đường còn sót lại vài bụm nước. Tuy tanh mùi bùn, mùi thum thủm của nước ối đọng lâu ngày vẫn còn hơn bị chết khát. Nhưng bây giờ trong cái chòi này kiếm đâu ra chút nước. Gã bất chợt nhớ tới câu trong thánh kinh: “Hãy lấy nước trong thân thể ngươi mà uống”. Gã chụm hai bàn tay và “tè” vào đó. Nước tiểu mới thoát khỏi thân thể còn nóng không khai. Trước đây gã nghe nói có một nhà khoa học cho rằng nước tiểu của người bổ và chữa được nhiều thứ bệnh. Uống nước tiểu, gã cảm thấy tỉnh táo hơn và có thêm chút sức lực.
Không biết con chó sói “ tuần hành” quanh chòi bao lâu, khi ánh sáng ban mai lọt qua khe hở vào trong chòi, có lẽ nó thất vọng bỏ đi. Tiếng chân nó xa dần gã mới tạm yên tâm. Nghe ngóng động tĩnh một lúc, gã loay hoay mãi mới mở xong cửa chòi bước ra ngoài. Không khí trong lành, tinh khiết buổi sáng sớm làm gã dễ chịu. Mặt trời lúc rạng đông - một khối lửa tròn vành vạnh, trước gã chẳng hề chú ý, bây giờ mới nhận thấy đẹp và rực rỡ khác thường. Gã chống cái gậy nứa chậm chạp vất vả cất bước vòng quanh chòi xem “căn cứ” của mình có đủ an toàn làm nơi trú ẩn thú dữ không. Và gã đưa mắt tìm phương hướng, đường đi. Tất cả đều hoang vu, mịt mờ, lặng ngắt, trống vắng. Không có con đường đi tới một nơi chốn nào đó may ra có chỗ dung thân. Chẳng lẽ đây là bước đường cùng, tận cùng? Trái đất trở thành hành tinh chết, chỉ còn mình gã bơ vơ trơ trọi nơi chốn không tên này?
Gã thở dài não nuột. Bây giờ việc trước mắt cần phải giải quyết ngay là sự sống tạm thời. Lấy gì ăn uống để cầm cự, chờ đợi cái ngày mà chính gã cũng chưa biết rồi sẽ ra sao. Gã đi ra xa hơn tìm kiếm. Vẫn vậy, chẳng có gì ngoài hoang sơ tiêu điều, câm lặng. Phải chăng ngày tận thế đã đến, không tìm đâu ra chút hy vọng của sự sống. Gã buồn rầu chán nản quay về chòi. Thất vọng mệt mỏi, gã muốn té xỉu trước cửa chòi. Đói khát lại hành hạ thân xác gã. Gã nghĩ tới con chuột nhắt. Trong túi quần gã còn cái hộp quẹt với một que diêm độc nhất. Phải kiếm cái gì để nhóm lửa nướng con chuột nhắt này. Tấm bố hôi thối đó. Gã lết lại bên tấm bố, cầm lên. Con chuột nhắt từ trong tấm bố bò ra. Trong khi gã ở ngoài, nó biết và rời hang đến đó kiếm ăn. Nó tuy sợ nhưng lần này bò lừ đừ, không còn chạy như đêm qua. Gã mừng rỡ đưa tay chụp bắt. Gã chậm hơn con chuột nhắt. Cánh tay rã rời không đủ sức tuân theo sự điều khiển của gã. Con chuột nhắt thoát nạn chui vào hang. Gã mất ăn lần thứ hai.
Gã nhấc tấm bố lên coi lần nữa. Mùi thối khẳm nồng nặc đến chịu hết nổi. Hình thù con vật khó nhận dạng, hao hao giống con mèo nhỏ. Chắc nó cũng rình bắt con chuột nhắt nhưng không bắt được, nên đã chết vì đói và trở thành thức ăn nuôi sống con chuột nhắt? Thịt con vật đã rữa. Gã muốn nôn oẹ. Hết mong kiếm chác chút đỉnh đồ ăn chỗ thịt thối rữa. Hy vọng của gã giờ dồn vào con chuột nhắt. Gã nằm im bất động giả vờ chết để đánh lừa nó. Rồi gã lại ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Trong cơn mơ màng, dĩ vãng chập chờn lúc ẩn lúc hiện, gã thấy mình dự bữa đại tiệc nơi lâu đài huy hoàng tráng lệ. Rượu thịt, của ngon món lạ, sơn hào hải vị bầy la liệt trên các bàn đầy hoa thơm. Các bà mệnh phụ phu nhân sang trọng, các tiểu thư xinh đẹp rực rỡ, khác gì bầy tiên nữ lượn quanh đám nam nhân. Quan khách toàn những bậc tai to mặt lớn trong xã hội. Họ thuộc tầng lớp thượng lưu trí thức, khoa học gia, tư bản, quan chức, chính khách, lãnh tụ. Họ là kẻ thù đồng thời cũng là ân nhân của nhân loại. Họ làm ra súng ống bom đạn, reo rắc chiến tranh, xây dựng sự nghiệp giầu có kếch xù trên chiến tranh và phè phỡn hưởng thụ. Đồng thời họ cũng là những người sản xuất ra lương thực, thực phẩm cung cấp cho loài người. Họ nuôi sống con người rồi tìm mọi cách, phát minh sáng chế đủ thứ vũ khí tối tân giết chết con người. Y hệt như cái sân cỏ trước nhà gã. Tưới nước bón phân cho mọc lên tươi tốt rồi cắt cụt đi. Cứ thế tái diễn.
Nhân loại trải mấy ngàn năm chưa có lấy một ngày trái đất bình an. Loài người càng văn minh thì sự giết người càng phát triển khủng khiếp. Ngày xưa một người cầm gươm giáo cung tên, mỗi lần ra tay chỉ giết được một mạng người. Còn ngày nay, với một vật nhỏ cũng đủ giết chết hàng triệu người. Họ nhân danh thượng đế làm công việc giết tróc hủy diệt. Họ thay mặt thượng đế định đoạt sinh mệnh đồng loại và vạn vật. Gã thấy tởm lợm cuộc sống nhầy nhụa thối tha này. Gã chán nản muốn từ bỏ tất cả để đến một nơi chốn nào đó, một cõi nào đó, không còn cảnh người âm mưu lừa lọc phản bội hãm hại người. Con người đối với gã ngày càng trở nên đồi bại bẩn thỉu bất lương tàn nhẫn quỷ quyệt, chẳng còn giữ thiên chức làm người như Phật Chúa muốn. May sao, gã tình cờ đọc một cuốn sách viết có nơi trên trái đất chưa bị con người nhân danh chủ nghĩa, nhân danh văn minh tiến bộ, nhân danh đạo giáo và nhân danh đủ thứ tới tàn phá hủy hoại giết chóc. Tất cả còn nguyên khôi, tinh khiết. Mọi sinh vật sống yên lành hiền hòa hội nhập cùng thiên nhiên, bốn mùa trăm hoa đua nở. Chim chóc muông thú sống quanh quẩn bên con người như những bạn thân thiết.
Còn người với người đối xử trong niềm thương yêu chân chính, cánh tay rộng mở hòa hợp hòa bình. Không còn nghe nói tới hai tiếng chiến tranh, nó đã trở thành câu chuyện cổ tích. Một xứ sở đẹp đẽ, lý tưởng - nếu không nói là cõi thần tiên hay chốn thiên thai trần thế. Nơi đó đúng là mùa xuân bất tận, mùa xuân vĩnh cửu của loài người. Gã đọc đi đọc lại nhiều lần cuốn sách và gã tin có thật. Đúng là cõi gã hằng mong ước, mơ tưởng. Gã phải tìm ra bằng được. Rồi gã lên đường đi tìm. Con tầu nhỏ chở gã vượt biển mấy ngày bị giông bão đánh chìm. Gã may mắn sống sót trôi dạt đến nơi đây, có lẽ chưa có tên trên bản đồ thế giới.
Thức ăn ngon rượu quý, gã ăn uống thỏa thê no nê say khướt không biết trời đất gì nữa, tới khi nghe nhiều tiếng tru dài vang dội, soáy vào tai, gã mới giật mình tỉnh giấc. Gã đưa tay chùi nước miếng còn ứa đầy nơi miệng, lắng tai nghe ngóng. Con chó sói đêm qua trở lại. Nó không còn bước nhanh nhẹn, gã nghe như nó lết từng bước chẳng khác gì gã. Nó cũng đang bị thần đói hành hạ. Gã thầm nghĩ. Cái mũi nó cứ sục sạo cọ quậy, hít hít đánh hơi. Nó đánh hơi xem mình sống hay chết để sửa soạn một bữa ăn thịnh soạn đây. Nó cũng rình rập như mình rình rập con chuột nhắt. Bỗng một tiếng gầm nổi lên rung chuyển cả cái chòi. Con chó sói có vẻ cuống quýt, gã nghe tiếng chân nó bước mau như trốn chạy.
Tiếp theo là những bước chân mạnh bạo đi tới. Mùi hôi hám khác thường của con vật xông vào trong chòi. Đúng là cọp rồi, chúa tể sơn lâm - một con thú độc ác dữ dằn nhất trong các loài vật. Chắc nó “ngửi” thấy mùi thịt người tìm tới. Cũng có thể nó đói và đang lần theo bước con chó sói để vồ. Con chó sói ranh ma đã mau chân chạy. Con cọp bước những bước nặng nề quanh chòi, tìm kiếm chỗ vào. Gã trở thành con mồi của nó. Tim gã đập như trống trận. Chân tay rũ liệt. Sự sợ hãi làm thân thể gã run lên, lạnh toát. Sớm muộn gã cũng trở thành miếng mồi của con ác thú. Hai tay gã vẫn cầm hòn đá với cái gậy nứa. Những “vũ khí” này làm sao chống cự nổi con ác thú, nhưng khi người ta sắp chết đuối vớ được cọng rác cũng tưởng phao cứu sinh.
Gã cố tạo tin tưởng trong tuyệt vọng, chẳng lẽ chịu nằm chờ chết? Gã nghĩ khi con cọp phá tan cái chòi, thân xác gã bị nó ăn tươi nuốt sống. Nếu ăn không hết nó sẽ tha xác gã về hang, biết đâu chẳng có một con cọp cái đang đợi. Gã tưởng tượng hai chiếc răng nanh to nhọn hoắt của nó rứt từng mảng thịt thân thể gã, máu chảy ròng. Việc chưa xẩy ra gã đã cảm thấy đau buốt thấu tim gan. Gã kinh tởm và căm giận loài ác thú này. Trong khi nằm chờ con ác thú ăn thịt mình, gã ngẫm nghĩ, suy tưởng, ôn lại sự đời - kẻ sắp chết thường vậy. Bỗng gã bắt gặp nhận thức về đồng loại của gã - tức con người - theo gã, còn tàn ác hơn loài cọp nhiều. Loài cọp chỉ khi đói quá bất đắc dĩ mới vồ bắt người ăn thịt. Và chúng ăn tới khi no thì thôi, xương xẩu vứt bỏ. Không bao giờ hãm hại, giết tróc đồng loại. Cùng lắm “quần” nhau một trận, con thua bỏ chạy, thế là xong, chứ không đuổi theo tru diệt hay nuôi hận thù.
Còn con người? Họ lùng bắn giết cọp không phải vì đói, vì hận thù hay vì tranh dành quyền lợi, địa vị. Họ giết cọp để thỏa mãn nhu cầu ích kỷ cá nhân. Hạ xong con cọp họ phanh thây mổ bụng nó. Tất cả thịt xương da, họ không bỏ một thứ gì. Xương thịt nấu thành cao ngâm rượu với ý tưởng đó là những chất đại bổ, trường sinh. Da cọp, một món đồ trang trí đắt giá. Ngay đến răng cọp, râu cọp, phân cọp họ cũng không bỏ, chế biến thành những thứ độc hại người. Vậy thì giữa người và cọp, loài nào hung dữ tàn ác hơn? Gã rợn mình nghĩ tới sự tàn ác của đồng loại, một giống vật nguy hiểm nhất trên hành tinh. Càng văn minh tiến bộ thì sự tàn ác hung hiểm càng lớn. Họ giết một lúc hàng triệu người vô tội lại còn đạo đức giả nhân danh này nọ, ngụy trang những danh từ đẹp đẽ cao quý.
Gã nằm co quắp trên nền đất ẩm, thân thể bất động chờ giây phút tận thế. Trong trí nhớ mơ hồ gã không hiểu sao, nguyên do nào mình lưu lạc tới chốn này. Tại bồng bột hời hợt, tại mơ mộng hoang tưởng, tại phiêu lưu muốn đổi đời, hay tại những gì khác? Chẳng lẽ cái thế giới, cái cõi thiên thai, cái chốn thiên đường với mùa xuân vĩnh cửu gã hằng mơ ước, mong muốn được sống là thế này ư? Hay trái đất vừa trải qua một trận đại hồng thủy, một trận động đất làm vỡ toác hành tinh, biến đổi tất cả? Trời hay người gây ra?Trong lúc tinh thần thể xác gã vật vờ lơ mơ mê tỉnh tỉnh mê, thì con cọp như điên cuồng hầm hầm tức tối bước mạnh qua lại cái chòi tìm cách đạp đổ. Mùi thịt người sống làm cơn đói nó nổi lên, rớt rãi chẩy ròng. Bỗng nó gầm một tiếng giận dữ và bất thần bỏ đi.
Nghe tiếng chân nó xa dần, gã tỉnh hồn vía thở ra nhẹ nhõm, coi như vừa thoát đại nạn. Gã nằm im vắt tay lên trán suy nghĩ, may nẩy sáng kiến nào chăng. Lát sau lại có tiếng động ngoài chòi. Gã ghé sát mắt vào khe hở cửa liếp nhìn. Con chó sỏi lông mầu vàng nhợt, lưng loang lổ đốm đen đang lừ đừ quay lại. Nó vẫn không chịu buông tha con mồi là gã. Chắc nó cũng lâm vào bước đường cùng như mình. Hai tay gã nắm chặt hòn đá và cái gậy nứa sẵn sàng đối phó với con thú mà gã tin sẽ hạ được nó. Con chó sói tiếp tục lùng sục quanh chòi và tru lên những tiếng man rợ, khủng bố uy hiếp tinh thần gã. Chẳng biết bao lâu nó lại bò lết đi.
Gã nhìn theo con chó sói, đầu nó chúi về phía trước với cái mõm nhọn dài, răng trắng nhởn nhe ra và cái đuôi ngắn ngủn lông xác xơ cụp xuống. Thì ra nó rất thính tai, nghe tiếng động từ xa biết con cọp quay trở lại. Đúng vậy. Lần này con cọp tỏ ra hung hăng dữ tợn hơn nhiều. Hai bên mép sùi bọt trắng xoá. Miệng há hốc để lộ hai hàm răng nhọn. Nó quyết ăn thịt mình đây. Cơn sợ làm gã run lên bần bật. Con cọp rảo bước nhiều vòng quanh chòi, chắc sửa soạn tấn công. Trước sự khốn cùng mười chết một sống đang sầm sập đến, sinh mạng gã chỉ còn trong gang tấc, đầu óc gã bỗng lóe ra sáng kiến. Ừ nhỉ, tại sao ta không dùng mưu trí để thoát cơn hiểm nghèo này? Gã nhớ tới bài học đấu trí khôn giữa người và cọp trong cuốn sách giáo khoa do thầy giáo giảng dạy ở nhà trường, lúc còn nhỏ. A, gã như reo trong đầu. Gã còn một que diêm, một que diêm cuối cùng nhưng cũng là khởi sự của hy vọng, của sự sống.
Gã hy vọng với ngọn lửa đốt lên sẽ cứu mạng sống gã. Gã thu hết tàn lực, bẻ cái gậy nứa khô thành những mẩu ngắn xếp lên trên tấm bố. Gã tin tưởng khi ngọn lửa bốc lên đốt cháy cái chòi, con cọp thấy khói lửa sẽ hoảng hốt bỏ chạy. Lúc ấy gã thoát ra khỏi chòi vẫn còn kịp. Gã run rẩy cho tay vào túi quần lấy hộp diêm. Bên ngoài, con cọp như hết kiên nhẫn. Nó lồng lộn bước những bước đầy đe dọa quanh chòi và cất tiếng gầm thét dữ dằn, vang dội rung chuyển cả vùng núi đồi hoang vu. Nó đang dồn sức lực phá vỡ cái chòi. Trong chòi, gã bắt đầu quẹt diêm nổi lửa. Cùng lúc, con chuột nhắt từ lỗ hang bò ra, lết về phía gã. Nó muốn nhân cơ hội này liều chết kiếm chác, ăn có?
Khi ngọn lửa bốc lên, gã bung cánh liếp cửa lều phóng ra ngoài. Đúng như gã nghĩ, con cọp đã bỏ chạy. Quay nhìn lại căn lều đang bốc cháy, gã tự nhủ: thế là hết cả chốn nương thân, dù là tạm trú. Gã thất thểu lê bước.Trước mắt gã bầu trời nặng chĩu dầy đặc mây trắng, mây đen, mây vàng, mây đỏ, bị trận cuồng phong xô đẩy, lúc quyện vào nhau, lúc xua đuổi nhau, khi hợp khi tan, tạo thành những hình thù ma quỷ rùng rợn. Gã bất chợt nhớ lại cảnh mặt trời - một khối lửa tròn vành vạnh mọc lúc rạng đông, tỏa ánh sáng rực rỡ gã vừa nhìn thấy khi nãy. Giờ mặt trời bị chìm khuất trong đám mây vân cẩu. Bỗng tảng mây đen tản ra từng mảng trông giống những cánh tay quái dị của tử thần cầm lưỡi hái và sát bên là những cái vòi con bạch tuộc tua tủa dài thòng, bị gió lùa sà xuống trước mặt gã, như muốn chụp bắt cuốn chặt gã. Gã ôm đầu vùng chạy. Nhưng chạy đâu bây giờ?